LTQ
Núi Bình San
còn gọi là núi Lăng nằm cách nội ô Thị xã Hà Tiên khoảng hơn 1km về
hướng tây bắc. Như tên gọi “Bình
San Điệp Thúy”, một trong mười cảnh đẹp của Hà Tiên được mô tả trong Hà Tiên
thập vịnh ; núi Bình San tựa như muôn ngàn chiếc lá xanh tươi phủ đầy ngọn núi
bằng phẵng như tấm bình phong tạo cho người đến tham quan một cảm giác yên
bình. Đây là nơi yên nghĩ của dòng họ Mạc mà đứng đầu là Mạc Cữu (1655-1735),
người đã có công khai phá và xây dựng
đất Phương Thành ( Hà Tiên ngày nay ) và các thành phố khác ở biển Tây chạy dài
từ Kiên Giang đến Siêm Rệp của Campuchia hiện nay.
Hình 1 : Tượng đài Mạc Cữu trên đường vào Hà Tiên
Trước sự xâm lược của nhà Thanh đến từ Mãn Châu vào trung nguyên, những
cựu thần nhà
Minh và dân chúng không chịu khuất phục ; họ chỉ còn chọn con đường là ly hương đến
vùng đất mới. Trên những chiếc thuyền lên đênh trên biển trôi dạt về đất phương Nam, nhóm người này ghé vào Phú Xuân tìm
đến chúa Nguyễn để xin tá túc. Lợi dụng cơ hội vùng đất mới ở phía Nam
còn hoang vu chưa có người khai phá, Chúa Nguyễn Phúc Tần đưa những người này
vào lập nghiệp để mở rộng bờ cõi. Trần Thượng Xuyên ( Trần Thắng Tài, nguyên
tổng binh phủ Cao, Lôi Liêm) và phó
tướng Trần An Bình đến vùng cù lao Phố ( Biên Hòa ), Dương Ngạn Địch nguyên
tổng binh Long Môn cùng phó tướng Hoàng Tiến đến vùng Mỹ Tho, Bạc Liêu sinh
sống. Khác với những người này, Mạc Cữu chỉ là một thương nhân. Ông thường đi
lại buôn bán trên các tuyến đường từ Trung Quốc đến Philippine, Batavia (Indonesia
)…..Trong lúc buôn bán có lẻ ông đã cộng tác với Trịnh Thành Công ở Đài Loan.
Nhận thấy nhà Minh không thể nào phục hưng được, ông lập nghiệp luôn ở đất Mang
Khảm ( tên gọi của Hà Tiên lúc ấy ). Nhờ tài tháo vác, lanh lợi trong việc buôn
bán lại biết rành thổ ngữ của Chân Lạp, ông được quốc vương nước này là Nặc Nộn
( Nặc Ông Non ) tin tưởng và phong làm Ốc Nha (1) của vùng đất Mang Khảm thuộc
tỉnh Peam ( tiếng Hoa gọi là Phương Thành ). Ông xây dựng đất Mang Khảm thành
một thương cảng lớn, tiếp nhận những thuyền bè từ các nơi đến buôn bán, trao
đổi với các mặt hàng thổ sản của địa phương như hồ tiêu, đồi mồi…. Ông lại mở
các sòng bạc để lấy xâu làm kinh phí để xây dựng tòa thành trên bờ biển, mở phố
xá, chiêu mộ lưu dân đến khai phá tại các nơi như Phú Quốc (Koh Tral), Cần Bột ( Kampot), Rạch Giá ( Lai Khê),
Luống Cày ( Lũng kỳ), Hương Úc ( Vũng Thơm, Kompong Som
)…..
Nhận thấy lợi nhuận lớn lao từ vùng đất mới này, khoảng năm 1687 quân Xiêm đến cướp phá Hà
Tiên bắt ông cùng gia quyến đem về giam tại Muang Galapuri ( Vạn Tuế sơn ). Hai
năm sau, nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mới trốn về Mang Khảm và bắt tay vào
khôi phục vùng này. Biết không thể nào đứng vững một mình và nhờ vào sự bảo trợ
của nước Chân Lạp vốn đã suy yếu vì nội chiến và sự xâm lược của quân Xiêm, năm
1708 ông đem đất Mang Khảm dâng cho chúa Nguyễn Phúc Chu và xin thần phục chúa
Nguyễn(2). Chúa Nguyễn Phúc
Chu phong cho ông làm Tổng Binh và đặt tên mới là trấn Hà Tiên. Chúa Nguyễn còn
cho trấn Hà Tiên còn được phép đúc tiền riêng để lưu thông. Từ đó dân đến ở ngày
càng đông và vùng đất hoang vu này biến thành nơi đô hội.
Hình 2 : Tượng Phật Thích Ca đang giảng đạo nơi chùa Tam Bảo.
Mẹ của ông là bà Thái thị vì nhớ con mà lặn lội từ Lôi Châu vượt biển
đến đất Mang Khảm để tìm. Ông phụng dưỡng cho bà đầy đủ và cất một ngôi chùa
cho bà tu hành đặt tên là chùa Tam Bảo. Một hôm đang ngồi lễ Phật tại chùa này bà
bổng nhiên hóa. Ông cho người đúc tượng bà để thờ trong chùa đồng thời cũng cho
đúc một đại hồng chung để kỷ niệm. Ngôi
chùa cũ này bị phá hủy hoàn toàn do loạn lạc còn ngôi chùa mới hiện nay do hòa
thượng Phước Ân xây năm 1930 tuy không
còn dáng vẽ ban đầu nhưng vẫn giữ được không khí u tịch của chốn thiền lâm. Hiện
nay chùa được tôn tạo và trở thành nơi hành hương của du khách khi đến viếng Hà
Tiên.
Ông mất năm 1735, thọ hơn 80 tuổi được triều đình phong tặng Khai Trấn Thượng
trụ Quốc Đại tướng quân Vũ nghị công, tước Cữu Ngọc Hầu.
Con trai trưởng của ông là Mạc Thiên Tích(1706-1780) còn có tên khác là
Mạc Thiên Tứ, Mạc Tông…. lên nối nghiệp cha vốn là người văn võ song toàn.
Tương truyền khi sinh ra ông tại Lũng kè ( Peam ) trong đầm tại đây nổi lên một tượng Phật cao
bảy thước, tỏa hào quang rực rỡ. Lúc đó có một nhà sư Chân Lạp đi ngang qua
thấy vậy bảo đó là điềm tốt, báo hiệu sẽ có một hiền nhân xuất hiện. Mạc Cữu
sai người vớt lên nhưng bao nhiêu người cũng không khiêng lên được. Ông đành
xây một ngôi chùa nhỏ ngay trên bờ đầm để thờ. Ít lâu sau, phu nhân của ông
sinh hạ được một cậu trai mặt mày khôi ngô tuấn tú. Thấy hợp với điềm lành, Mạc
Cữu đặt tên con trai là Thiên Tứ ( nghĩa là trời ban tặng ). Khi lên nối nghiệp
cha, ông được chúa Nguyễn phong làm Tổng Binh Đại Đô Đốc trấn Hà Tiên và ban
tặng bảy chữ lót cho các đời nối tiếp nhau là : Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Về sau ông mới đổi tên là Thiên Tích vì chữ Tích cũng có nghĩa là ban cho nhưng
bên trái có bộ Kim ( chỉ hành kim trong ngũ hành ).
Ngoài việc mở mang thành lũy, luyện tập quân đội để đề phòng sự xâm
lấn, cướp phá của quân Xiêm, Mạc Thiên Tích còn là một văn nhân. Ông xây dựng
Khổng Tử miếu tại Hà Tiên, chiêu nạp hiền tài địa phương và từ nơi khác đến và
mở Chiêu Anh các để cùng các văn nhân ngày ngày đến giảng sách, xướng họa thi
thơ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của tao đàn Chiêu Anh các là bài “ Hà
Tiên thập vịnh”(4) mô tả mười
cảnh đẹp của Hà Tiên được người dân truyền tụng đến ngày nay. Một số người cho
rằng chùa Phù Dung ngày nay vốn được xây dựng trên di tích nền Chiêu Anh các
ngày xưa. Vấn đề này đang được các nhà nghiên cứu về lịch sử và văn hóa của Hà
Tiên làm rõ.
Năm 1756, quốc vương nước Chân Lạp là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (4) nhưng bị đánh bại phải sang
nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tích dâng thư lên chúa Nguyễn để xin viện binh.
Chúa Nguyễn chấp thuận và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Nặc Nguyên lâng
đất Tầm Bôn, Bôi lạp để chuộc tội . Hai phần đất đó trở thành hai phủ Tân An và
Gò Công.
Năm 1757, Nặc Nguyên mất, nước Chân Lạp có nội loạn, Nặc Tôn chạy sang
Hà Tiên cầu cứu. Mạc Thiên Tích đứng ra sắp xếp xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm
vua đất Chân Lạp. Chúa Nguyễn sai Mạc Thiên Tích cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống
Nặc Tôn về nước. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long ( bao gồm Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Trà Vinh... ) cho
chúa Nguyễn . Riêng đối với họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm châu Hương Úc, Cần Bột,
Trực sâm, Sài Mạc, Lình Quỳnh để đền ơn giúp đở. Mạc Thiên Tích dâng hết đết
này cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sát nhập vào Hà Tiên và chia vùng đất mới
này thành hai đạo : xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo .
Trong thời gian đầu của Mạc Thiên Tích làm tổng trấn đất Hà Tiên, vùng
đất này trở nên phồn thịnh nhưng nó cũng chính là miếng mồi ngon béo bở cho các
thế lực ngoại bang. Chúng tìm cách xâm chiếm và cướp phá mỗi khi có dịp. Quân
Xiêm đã nhiều lần tấn công đất Hà Tiên nhưng chuốc lấy thất bại đành phải kéo
quân về nước.
Vào đời chúa Nguyễn Phúc Thuần, do quyền thần Trương Phúc Loan tiếm
quyền khiến nhân dân bất mãn và ngã về phía Tây Sơn. Dòng họ Mạc vẫn trung
thành với chúa Nguyễn vì nhớ ơn họ đã từng cưu mang mình trong bước đầu lập
nghiệp tại đất Hà Tiên. Khi Nguyễn Phúc Thuần bị quân Tây Sơn đánh bại và bị bắt
tại đạo Long Xuyên ( Cà Mau ngày nay ), ông đem quân tới ứng cứu nhưng không
kịp đành phải quay về đất Hà Tiên. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần được giải về
Gia Định và bị giết ở đó. Năm 1780, bất đắc dĩ Mạc Thiên Tích phải cùng gia
đình đi lánh nạn tại Xiêm La. Lúc đầu Trịnh Nhã Tân đối xữ với ông rất tử tế
nhưng sau đó bị kế ly gián của Tây Sơn nên giết các con của ông là Mạc Tử Dung,
Tử Hoàng và Tử Thượng.Gia quyến chỉ còn sót lại một vài người như Mạc Tử Sanh
thì bị bắt đi đày. Quá phẩn uất ông uống thuốc độc tự tử (5). Năm 1788, Mạc Công Bính là con trai út
của Mạc Tử Hoàng mới đem hài cốt của Mạc Thiên Tích cùng các gia quyến đem về
an táng tại núi Bình San. Triều đình nhà Nguyễn nhớ công lao của họ Mạc đã tận
trung nên cho xây một ngôi đền gọi là Mạc Công Từ để cho con cháu họ Mạc và
nhân dân thờ cúng. Ngôi đền cũ trước đây ở gần chùa Tam Bảo được lợp bằng tre
lá do Mạc Công Du là cháu 4 đời của Mạc Cữu lúc đó làm Hiệp Trấn Hà Tiên lập
vào khoảng năm 1816-1818. Khoảng năm 1833, Mạc Công Du theo Lê văn Khôi chống
lại vua Minh Mạng nên bị tội, con cháu tản lạc nên ngôi đền bị hủy hoại. Đến
năm 1845, Tổng Đốc An Giang là Doãn Uẩn thấy Mạc Cữu
và con là Mạc Thiên Tích có công lao rất lớn trong việc khai phá đất Hà Tiên nên
mới tâu lên vua Thiệu Trị xin lưu dụng lại con cháu họ Mạc và xây dựng lại ngôi
đền tại địa điểm mới dưới chân núi Bình San. Ngôi đền mới này được xây dựng
bằng gỗ lợp ngói, kiên cố và đẹp đẽ hơn được hoàn thành vào năm 1847 còn có tên
gọi là Trung Nghĩa Từ và giao cho con cháu họ Mạc phụ trách việc thờ cúng. Từ
đó đến nay nó nhiều lần được trùng tu do công lao quyên góp của nhân dân đất Hà
Tiên.
Hình 3 : Cổng vào Mạc Công miếu ( Trung Nghĩa Từ ).
Đến Trung Nghĩa từ
vào mùa hạ, du khách có thể cảm nhận được mùi hương tỏa ra từ những đóa sen hồng trồng ở hai ao sen
trước cổng đền. Ao sen này tương truyền là do Mạc Thiên Tích đào để lấy nước
ngọt cho dân địa phương dùng vì nơi này gần biển nên khan hiếm nước ngọt, để
nấu ăn chỉ có thể dùng nước mưa nên nhà nào cũng có lu khạp để dự trữ nước.
Hình 4 : Đôi sư tử trước tiền đình.
Đền có kiến trúc theo hình chữ quốc, chung quanh có tường dày bao bọc
còn ở chính giữa là điện thờ. Bước qua khỏi cổng là con đường nhỏ lát gạch, hai
bên trồng cây xanh dẫn đến một tiểu đình có đôi sư tử bằng đá uy nghi. Trên các
cột đều có những câu đối viết bằng các kiểu chữ khác nhau. Trước điện thờ chính
còn có một biển thờ đề bốn chữ “ Khai
Trấn Trụ Quốc” và bức hoành ´Nghị Võ Công”.
Gian thờ chính thờ bài vị của Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Sanh, Mạc Tử Hoàng... còn ở hai bên thì
thờ Thái phu nhân (mẹ Mạc Cữu), phu nhân Nguyễn Hiểu Túc ( Vợ Mạc Thiên Tích ),
Mạc Mi Cô ( con Mạc Thiên Tích) cùng các
học sĩ, thuộc tướng và con cháu họ Mạc. Vì vậy ngôi đền này còn có tên gọi khác
là Mạc Công Miếu hay đền họ Mạc. Bên vách phải gian thờ là tiểu sử dòng họ Mạc
được viết bằng chữ quốc ngữ để khách tham quan có thể hiểu thêm về công lao của
họ Mạc tại đất Hà Tiên.
Đi vòng theo phía phải Mạc Công Miếu, men theo những bậc đá hướng về
lưng chừng núi sẽ đưa ta đến nơi an táng của của dòng họ Mạc. Mộ Mạc Cữu nằm ở
trên cao được xây dựng theo kiểu Trung Quốc có hình bán nguyệt khoét sâu vào
bên trong núi được làm bằng hỗn hợp đá vôi, cát, đường và nhựa ô dước nên vẫn bền
vững dù trãi qua nhiều năm tháng. Mộ được bố cục theo thế tọa ngưu ( hình con trâu đang nằm), phía trước có
hai tượng đá cầm gươm đứng hầu còn phía sau lưng là một rừng cây thẳng tắp che
chở cho ngôi mộ. Ngoài ra trước mộ còn có một khoảng sân rộng với các bậc thềm
cẩn bằng đá xanh, tương truyền là do các nhà buôn Trung Hoa thời bấy giờ chở từ
Quãng Tây sang. Tiếc thay ngôi mộ hiện nay lại được tân trang bằng cách quét
lên lớp vôi màu vàng, làm mất đi vẽ cổ kính so với mộ của Mạc Thiên Tích và Mạc
Tử Hoàng nằm ở bên dưới.
Hình 5 : Lăng mộ mạc Cữu trên núi Bình San.
Hình 6 : Bia mộ Mạc Cữu.
Mộ của Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Hoàng trông có vẽ khiêm tốn hơn. Vẫn bố
cục theo thế tọa ngưu nhưng chỉ có vòng cung phía trước làm bằng đá xanh còn
nấm mộ chỉ là nấm đất bình thường,
bên trên có trồng hoa phủ xanh ngôi mộ. Ngoài ra xung quanh đó còn có nhiều ngôi mộ của con cháu họ Mạc và
gia quyến của họ. Đặc biệt còn có các ngôi mộ của những gia tướng mà lúc sinh
thời đã cùng với họ Mạc khai phá và gìn giữ đất Hà Tiên. Tất cả có gần 40 ngôi
mộ chia làm 4 khu nằm rãi rác khắp núi Bình San.
Hình 7 Mộ Mạc Thiên Tích nơi núi Bình San.
Chùa Phù Dung (6) và
mộ Mạc Mi Cô ( còn gọi là mộ cô Năm) nằm trong quần thể di tích họ Mạc tại núi
Bình San cũng là nơi mà khách hành hương quan tâm tới khi ghé thăm Hà Tiên.
Chùa Phù Dung hiện nay được cho là xây dựng trên nền của Tao đàn Chiêu
Anh các ngày trước. Sự tích của nó gắn liền với chuyện tình của Mạc Thiên Tích
và nàng thứ cơ Nguyễn thị Xuân, hiệu là Phù Cừ.
Hình 8 : Chùa Phù Dung nơi chân núi Bình San.
Tương truyền bà là thứ nữ của một di thần nhà Lê tên là Nguyễn Đình lưu lạc đến đất Hà Tiên này. Bà
rất giỏi về văn thơ nên được Mạc Thiên Tích yêu dấu khiến chánh thất là Nguyễn
phu nhân ghen tức. Lợi dụng lúc ông đi duyệt binh vắng nhà, bà Chánh thất cho người bắt nàng thứ cơ nhốt
trong chiếc chậu lật úp lại. Khi Mạc Công trở về thì trời cũng vừa đổ cơn mưa .
Ông truyền lệnh cho gia nhân lật chậu lên để hứng nước mưa thì bắt gặp nàng thứ
cơ thoi thóp trong chậu sắp đứt hơi. May mắn thay nhờ cứu chữa kịp thời nên
nàng thoát chết. Chán nãn trước tình đời, nàng xin Mạc Công được đi tu. Trước
tình cảnh đó. Mạc Công dành chiều ý cất một am tự cho nàng thứ cơ được an tâm
tu hành. Bên cạnh am tự đó, cho đào ao trồng hoa sen để kỷ niệm mối tình xưa.
Khi nàng chết, ông xây một ngôi mộ kiên cố đẹp đẽ để tỏ lòng thương tiếc người
vợ đã vì mình mà chịu khổ. Chuyện tình này được nữ sĩ Mộng Tuyết tiểu thuyết hóa thành “ Chuyện nàng Ái Cơ trong
chiếc chậu úp “ và soạn giả Kiên Giang viết lên vở cải lương nổi tiếng “ Áo
cưới trước cổng chùa”.
Trước sân chùa là một đài cao có tượng Phật Quan Thế Âm cao bằng xi
măng trắng. Bước vào bên trong là ngôi chính điện thờ Phật Thích ca Mâu Ni còn
hai bên là hai đại đệ tử A Nan và Ca Diếp. Trên tường còn có 4 bức phù điêu mô
tả 4 cảnh trong cuộc đời đức Phật : lúc đản sanh, xuất gia, thuyết pháp lần đầu tiên và lúc nhập niết bàn. Phía hậu liêu là bệ thờ tượng bà Phù Dung tên hiệu Từ Thành
phu nhân Nguyễn thị Xuân.
Ngôi mộ của Mạc Mi Cô cũng mang một màu sắc huyền bí nửa hư nửa thật.
Theo nữ sĩ Mộng Tuyết thì khi Nguyễn Phu nhân chuyển bụng sinh được một bé gái.
Sau khi tắm rửa xong thì đứa bé tự nhiên lớn bằng đứa trẻ lên chín, mười tuổi và cất tiếng đọc một bài sấm truyền. Nội dung bài sấm truyền này báo
hiệu dòng họ Mạc sẽ suy vong. Mọi người chưa hết kinh ngạc thì đứa bé từ từ nhỏ lại bình thường, nhắm mắt, nằm yên và
tắt thở. Nguyễn phu nhân cho an táng
phía tây núi Bình San và cho xây một ngôi mộ kiên cố, tráng lệ. Lúc đó thì Mạc Thiên Tích cũng vừa về tới nhà và cho
khắc lên ngôi mộ mấy chữ : Tiểu thư Mạc Mi Cô chi mộ. Tuy nhiên theo truyền thuyết dân gian thì câu
chuyện khác hẳn (7). Nguyễn
phu nhân chuyển bụng sinh ra một bé gái bị dị tật. Lúc mới sinh ra tóc đã dài quá gối. Lên 3 tuổi
mà vẫn không ngồi dậy được. Mọi người cho đó là điềm gở nên người đứng đầu họ
Mạc cho đem chôn sống. Phải chăng đây là sự báo ứng cho việc làm của
Nguyễn phu nhân đối với nàng thứ cơ ? Nguyễn phu nhân tiếc thương nên
xây ngôi mộ tại phía tây núi Bình San để chôn cô bé này. Sau khi cô bé chết
dòng họ Mạc bắt đầu suy sụp phải lưu vong sang Xiêm La. Tương truyền rằng Mạc
Mi Cô rất linh hiển thường ra tay cứu giúp nhân dân Hà Tiên trong cơn ly loạn
nên dân trong vùng rất tin tưởng, ngôi mộ của bà lúc nào cũng nghi ngút khói
hương.
Hình 9 : Mộ cô Năm Mạc Mi Cô dưới chân núi Bình San.
Ngày 7/9 năm 2008 tại thị xã Hà
Tiên diễn ra lễ kỷ niệm 300
năm ngày thành lập trấn Hà Tiên. Một hội thảo về lịch sử và công lao của họ Mạc
đối với đất Hà Tiên đã được
tổ chức với sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử. Trên đường vào thị xã Hà Tiên, tượng đài Mạc Cửu bằng đá cao 15m
cũng đã được dựng xong với dáng đứng uy nghi : một tay tỳ vào đốc kiếm, tay kia
cầm cuốn thư văn, mắt nhìn ra biển Đông lộng gió. Ước muốn của ông cách nay hơn 300 năm giờ đã thành
hiện thực. Hà Tiên ngày nay trở thành một đô thị phồn vinh với nhiều di tích lịch sử và văn hóa làm say lòng
bao du khách từ phương xa đến. Họ đến đây để thăm lại những di tích đã từng
được ghi trong Hà Tiên thập vịnh như : Kim Dự lan đào, Đông Hồ ấn nguyệt, Lộc
Trĩ thôn cư, Châu Nham lạc lộ..... Điểm dừng chân đầu tiên chính là núi Bình
San để có một chút hoài niệm về người xưa đã đem hết sức mình khai phá và bảo
vệ đất Hà Tiên qua nhiều thế hệ như hai câu đối ngoài cổng đền Trung Nghĩa từ :
Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng,
Thất diệp phiên
hàn quốc sủng vinh.
Dịch
nghĩa Một nhà trung nghĩa
danh thơm cả họ,
Bảy lá giậu che (8), cả nước mến yêu.
LÂM THANH QUANG
Chú thích :
(1)
Viên
quan coi về hành chánh và thu thuế tại một địa phương.
(2)
Có tư
liệu cho rằng năm 1708 Mạc Cữu mới liên lạc được với chúa Nguyễn Phúc Chu, còn
năm 1724 mới thực sự dâng hết đất đai cho chúa Nguyễn.
(3)
Hà Tiên thập cảnh vịnh là: Kim Dự lan đào, Bình San điệp thúy. Tiêu Tự thần chung, Giang Thành
dạ cổ, Thạch Động thôn Vân, Châu Nham lạc lộ, Đông Hồ ấn nguyệt, Nam Phố trừng ba, Lộc Trĩ thôn cư, Lư
khê ngư bạc.
(4)
Người
Chăm từ Chiêm Thành chạy loạn sang sinh sống tại Chân lạp.
(5)
Theo
nhà thơ Đông Hồ thì Mạc Thiên Tích tự tử bằng cách nuốt vàng lá cho bít cuống
phổi nghẹt thở mà chết.
(6)
Người
ta phát hiện là có hai chùa Phù Dung :
Chùa Phù Dung cũ nằm ở phía tây nam núi Bình San còn chùa Phù Dung mới được xây
trên nền của Chiêu Anh Các cách đó hơn 500m.
(7)
Đây
chỉ là lời đồn bên ngoài vì họ Mạc luôn giữ kín về cái chết của Mạc Mi Cô. Việc
này được tiết lộ qua gia nhân và người thợ xây mộ cho Mạc Mi Cô mới truyền ra
bên ngoài.
(8)
Ý nói
cả nhà họ Mạc bảy đời đều dốc sức mở mang bờ cõi, gìn giữ biên cương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét