Trang

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

Sân khấu dù kê, dì kê trong lòng người Khmer Nam bộ.



Sân khấu dù kê, dì kê trong lòng người Khmer Nam bộ.
Dù kê và dì kê là loại hình nghệ thuật dân gian của người Khmer Nam bộ sinh sống tại các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang... Lịch sử của loại hình này bắt nguồn từ sự giao lưu về văn hóa giữa người Kinh, Hoa và Khmer sống chung với nhau hàng thế kỷ trên vùng đất này. Những đoàn Kinh kịch, Hồ Quảng đến từ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc và các đoàn hát bộ, cải lương của các ông bầu người Việt lưu diễn tại các làng quê là nguồn cảm hứng cho người Khmer tại đây xây dựng một loại hình nghệ thuật giải trí riêng cho dân tộc mình.
Theo sách “Văn hóa Khmer Nam Bộ” của Nhà xuất bản Hậu Giang, thủy tổ của nghệ thuật sân khấu Dù Kê là ông Kru Cô, một người Khmer ở Trà Vinh. Năm 1920, ông Kru Cô thành lập gánh hát Dù Kê lấy tên là “Nhật Nguyệt Quan,” vừa biểu diễn phục vụ, vừa truyền bá và đào tạo diễn viên cho bộ môn nghệ thuật mới mẽ này.
Riêng các bô lão Khmer ở Trà Vinh lại cho rằng, vào thập niên 20 của thế kỷ trước, tại chùa Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần (Trà Vinh) có một chú tiểu tên là Kê rất mê xem hát Quảng. Sau khi xem xong, chú thường rủ bạn bè đến sân sau của chùa để phân vai biểu diễn, xem vừa ngộ vừa vui. Tiếng tăm của chú tiểu Kê thu hút người dân Khmer và cả người Kinh đến xem ngày càng nhiều. Mỗi lần đến đây, người dân bảo nhau là đi xem Kê vũ, lâu ngày biến âm thành Dù Kê.
Sân khấu dù kê phát triển rất nhanh chóng vào đầu thế kỷ thứ 20 và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được của người Khmer Nam bộ vào các mùa lễ hội như Chol Chnăm Thmây, Sen Dolta, Ooc-Om-Boc.... Vào khoảng năm 1930, do tình hình chiến tranh ở miền Nam ác liệt, một số nghệ sĩ dù kê ở Nam bộ sang đất nước Campuchia thành lập đoàn nghệ thuật dù kê trình diễn cho người dân tại đây xem và được người dân đất nước Chùa Tháp đón nhận một cách trân trọng và đặt tên mới cho nghệ thuật sân khấu dù kê là “Lkhôn Ba Sắc” (kịch hát miền sông Hậu).
Ngày nay, hàng năm vào mỗi dịp diễn ra các hội hè, đình đám của người Khmer Nam Bộ, người ta lại thấy xuất hiện loại hình nghệ thuật này như một món ăn tinh thần không thể thiếu. Trên sân khấu được dựng đơn sơ trên sân chùa với phông màn mang tính ước lệ, các nghệ sĩ của đoàn nghệ thuật dù kê, dì kê say mê trình diễn trước một số đông khán giả ái mộ. Một lần được xem đoàn nghệ thuật dù kê Ánh Bình Minh của tỉnh Trà Vinh trình diễn, mặc  dầu bất đồng về ngôn ngữ nhưng qua những điệu múa, tiết tấu của âm nhạc cùng vẻ chăm chú của những người đang ngồi quây quần bên sàn diễn, cũng đủ để chúng tôi cảm nhận được sức thu hút loại hình nghệ thuật này đối với người Khmer sinh sống trên vùng đất Nam Bộ là rất chân thật và gần gũi như hơi thở của cuộc sống.

  
Hình1 : Các nghệ sĩ trong đoàn nghệ thuật dù kê Ánh Bình Minh đang trình diễn trích đoạn một vở tuồng cỗ.


Riêng đối với vùng đất An Giang, tại xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn có gia đình nghệ nhân Châu Men Sa Ray đang cố gắng duy trì loại hình nghệ thuật Dì kê đã gần như biến mất tại các nơi khác.
Trong căn nhà cấp 4 của gia đình nghệ nhân Chau Men Sa Ray gần trụ sở Ủy Ban Nhân Dân xã Ô Lâm, những phục trang cho các diễn viên hát dì kê được lưu giữ cẩn thận. Từng chiếc áo, mão lộng lẫy được đính kim sa, trang trí bằng những nét hoa văn độc đáo được xếp ngăn nắp bên trong tủ kính. Tất cả đều do đôi bàn tay khéo léo của đôi vợ chồng Chau Men Sa Ray và Néang Ok tạo nên.
Có đến tận nơi, mới có thể cảm nhận được sự đam mê “ dì kê” của người Việt gốc Khmer ở một xã gần biên giới này. Nhiều năm qua, đoàn dì kê Ô Lâm với trụ cột gồm ba người là  hai vợ chồng Chau Men Sa Ray và Néang Ok  cùng với cô con gái Néang Kunh Thia đã dẫn dắt một đội gồm hơn 40 người để đưa “dì kê” giới thiệu với đồng bào trong cả nước và gìn giữ loại hình nghệ thuật này như một thứ “bảo vật” thiêng liêng !... Đoàn nghệ thuật dì kê xã Ô Lâm đã từng đại diện cho tỉnh An Giang và đồng bào Khmer Nam Bộ tham dự các Liên hoan văn hóa dân tộc Khmer tại nhiều địa phương trong cả nước, tạo tiếng vang đến thủ đô Hà Nội và giành được nhiều giải thưởng. Những phần thưởng đó mặc dầu mang tính khích lệ nhưng  lại là nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với họ và nhân viên trong đoàn. Cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng ngọn lửa nhiệt tình vẫn sáng mãi trong tim, giúp họ nỗ lực giữ gìn giá trị văn hóa thiêng liêng của điệu hát “dì kê”.


       Hình 2 : Đôi vợ chồng nghệ nhân Chau Men Sa Ray và Néang Ok trước nhà tại xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

Về sự khác biệt giữa Dù kê và Dì kê, Nhiều người am hiểu văn hóa Khmer phân tích như sau : Dù kê  gần với cải lương của người Việt hơn. Diễn viên dù kê qua các điệu hát để truyền đạt nội dung của tuồng tích còn các điệu múa chỉ mang yếu tố minh họa. Riêng dì kê thì phần vũ đạo mới chính là yếu tố quan trọng còn lời ca đóng vai trò thứ yếu. Vì vậy nó gần với nghệ thuật hát bộ của người Việt hay Hồ Quảng của người Hoa hơn.
Các tuồng tích của sân khấu dù kê và dì kê thường được lấy từ các truyện cổ dân gian Khmer như chuyện nàng Sêda, Thạch Sanh chém chằn, Chuyện chàng Tum nàng Tiêu... Trong những năm gần đây, đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh đã dàn dựng hơn 40 vở ca kịch Dù Kê mang tính chất xã hội đương đại. Trong đó, đáng kể nhất là vở “Nghĩa tình trong giông tố,” “Giữ Đền cô Hia,” “Bông Hồng Trà Vinh”,“Mối  tình Bôpha - RạngXây”… 


 Hình 3 : Néang Kunh Thia hóa thân thành vũ nữ Apsara.
Phục vụ cho vở diễn ngoài các nhạc cụ dân tộc như đàn Trô-sô, đàn Trà Khê, đàn Khưm, đàn Pưn-pết, kèn Srolai Rôbăm... còn có các nhạc cụ điện tử khác đã được cải biên cho phù hợp với vở diễn. Những nhạc cụ này khi được tấu lên  sẽ có một giai điệu khi thì vui tươi, rộn ràng , khi thì sâu lắng, bi ai nên có sự thu hút đặc biệt đối với người xem. Khi kết thúc đêm diễn, họ quay về trong tiếc nuối và hẹn gặp lại vào đêm sau để tiếp tục câu chuyện còn đang dở dang. Có nhiều tuồng tích phải diễn mấy đêm mới hết nhưng người xem vẫn không bỏ cuộc giữa chừng.

LÂM THANH QUANG







Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

Nghi thức xây chầu trong lễ hội dân gian Nam bộ



NGHI THỨC XÂY CHẦU

TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN NAM BỘ



Từ thuở khai hoang mở cõi về phương Nam, người dân đã mang theo những tín ngưỡng ở vùng ngoài truyền bá nơi vùng đất mới này. Một trong những tín ngưỡng này là việc tổ chức những lễ hội dân gian như lễ Kỳ Yên tại các đình làng thờ những người có công mở cõi mà nhân dân suy tôn là Thành Hoàng và được triều đình công nhận như Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Huỳnh Đức….hoặc trong các lễ Vía Bà là những nhân vật theo truyền thuyết được người dân sùng bái như  Lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, Lễ Vía Bà Đen ở Tây Ninh, Lễ Vía Bà Thiên Hậu tại các nơi vùng ven biển….Tỉnh An Giang có hai lễ hội lớn nhất là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam vào ngày 25, 26, 27 tháng 4 âm lịch và Đại Lễ Kỳ Yên tại Đình Châu Phú, Thị xã Châu Đốc thờ Thành Hoàng Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức vào ngày mùng 10, 11 tháng 5 âm lịch. Trong các lễ hội này, nhiều nghi thức được tiến hành thống nhất với nhau như lễ Thỉnh Sắc, lễ Túc Yết, lễ Xây Chầu, lễ Chánh Tế, lễ Hồi Sắc…..Trong đó lễ Xây Chầu thường được đông đảo người dân hâm mộ mặc dầu có nhiều người chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Trong bài này chúng tôi giới thiệu nghi thức Xây Chầu diễn ra tại Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam để giúp các bạn đọc tìm hiểu thêm về nghi thức này.

Nghi thức “Xây chầu” đôi khi còn được gọi là gọi là “ Khai Chầu” được tiến hành sau lễ  “ Túc Yết”(1) nhằm mục đích báo hiệu việc khai hội bắt đầu ; trước khi các đoàn hát bộ trình diễn phục vụ cho các vị thần ở địa phương và đông đảo quần chúng hâm mộ. Nghi thức Xây chầu có thể được tiến hành hàng năm ở nơi có đủ điều kiện như Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam hoặc  “ tam niên đáo lệ” (2) như  các đền thờ các vị thành hoàng ở địa phương khác.

Việc cử hành lễ xây chầu được chia ra làm 3 loại : Xây chầu văn, Xây chầu võ và Xây chầu bán văn bán võ. Ở Xây chầu văn, câu chú được đọc thầm trong miệng. Xây chầu bán văn, bán võ không khác xây chầu văn là mấy nhưng câu chú được đọc ra phải uy nghi, dõng dạc. Người được cử ra để đánh trống chầu được gọi là Chánh tế Ca công (3) thường là người lớn tuổi, có học thức, biết chữ Nho và nhất là biết một chút ít bùa “Lỗ Ban”. Chánh tế Ca công thường mặc áo dài, đầu chít “khăn đóng”. Ở nghi thức Xây chầu võ,  người đánh trống chầu ăn mặc theo lối võ sĩ, đọc các câu chú một cách dũng mãnh, vừa đánh trống vừa múa theo điệu trống võ. Nghi thức này ngày nay chỉ được sử dụng trong các lễ hội lớn vì nó đòi hỏi những qui định rất nghiêm ngặt, không được sai sót. 


Hình 1 : Chánh tế  ca công vẽ bùa sát quỷ.

Trống chầu là một trống lớn đặt ở giữa sân có đường kính  khoảng 0,8 mét. Ở giữa mặt trống có vẽ hình lưỡng nghi  còn trên mặt trống được phủ một tấm vải đỏ. Dùi trống được đặt trên một khay trầu rượu đặt trước bàn thờ hội đồng(4). Trước tiên Chánh tế Ca công làm lễ tẩy trần ( lau sạch bụi trên mặt) bằng khăn lau màu đỏ được nhúng vào thau nước được đặt trước bàn thờ, sau đó mới tiến hành lễ nguyện hương. Người phụ trách đọc biểu văn mời Bà Chúa Xứ cùng với Thoại Ngọc Hầu và hai vị phu nhân về tham dự lễ xây chầu.

Trước khi bắt đầu điểm trống, Chánh tế ca công bước đến bàn thờ, nâng tô nước có cành dương lên ngang trán khấn vái. Ông đưa tô nước ngang ngực, dùng 3 cây hương vẽ bùa lên tô nước ; sau đó hớp 3 hớp nước, giắt 3 cây hương lên mép tai, cầm nhành dương nhúng vào tô nước  vẩy ra xung quanh và đọc to :

-          “ Nhất xái thiên thanh” : Vẩy nước lên trời xanh, cầu cho mưa thuận gió hòa.

-          “ Nhị xái địa ninh” :Vẩy nước xuống mặt đất, cầu cho đất đai phì nhiêu mầu mở.

-          “ Tam xái nhơn trường” : Vẩy nước cho loài người, cầu cho dân gian được trường thọ.

-          “Tứ xái quỷ diệt hình” : Vẩy nước vào loài quỷ dữ, cầu cho chúng bị hủy diệt.

Sau khi đọc xong, ông xá 3 xá, tiếp tục đọc 4 câu thần chú :

“ Pháp luân thường chuyển tứ thiên vương,

Bát bộ kim cang trấn tứ phương.

Hộ kinh khởi cổ đàn lai trợ,

Tùng thư xã tắc hộ miên trường.”

Đọc thần chú xong, Chánh tế ca công chuyển bộ bước theo hình chữ đinh, tay chấp dùi trống ngang ngực đến trước mặt trống, chân phải vẽ chữ bùa “sát quỷ” trên mặt đất, tay cầm dùi trống vẽ bùa “tứ tung” lên trên chữ “sát quỷ”, chân trái đạp lên, hướng mặt lên trời hô to : Thái thượng lão quân cấp cấp như luật định”. Sau đó ông cầm khăn đỏ phủ trên mặt trống, quấn chặt vào dùi trống và tay. Việc này được thực hiện rất cẩn trọng bởi vì theo niềm tin của người dân, nếu xãy ra chuyện rớt dùi trống khi đánh trống, sẽ xãy ra tai họa lớn trong làng. Đến trước trống, tay phải ông cầm dùi trống, tay trái nắm lai áo bắt ấn rồi vẽ bùa lên mặt trống, nhịp nhẹ bên tang trái trống đọc câu chú : Nhất kích cổ chư tiên giáng phước”, rồi gỏ nhẹ vào tang trống bên phải : “ Nhị kích cổ chư địa phi tai”, gỏ nhẹ lên phía trên : “ Tam kích cổ giáng thần lai khởi thủ”. Nhịp vào giữa mặt trống nơi có biểu tượng lưỡng nghi đọc : “ Nhất điểm nguyệt hoàng trào tể chúa, vương bá hà xương vạn vọng trình tường, thiên thu thiên hóa. Nhị điểm nguyệt hải yến hà thăng, chư thần đinh ninh, uy linh hạt tán. Tam điểm nguyệt quốc thới dân cường, hoàng thạch phong đăng, dân khương vật thạnh, bổn hội bá tánh thọ thọ phước”. Tay phải ông cầm dùi đánh mạnh lên mặt trống niệm chú : “ Chư thần nhất túc”, đánh thêm một dùi nữa niệm : “ Hét tợ lôi oanh, biển cổ chấn kim kinh thiên đạt địa, ly mỵ tiệm hành án oanh oanh, án oanh oanh, án oanh oanh...”


Hình 2 : Chánh tế ca công điểm trống chầu.

Sau khi điểm trống xong, Chánh tế Ca công bắt đầu đánh trống theo nhịp ba hồi, trước nhẹ và thưa, sau to và nhặt hơn. Số roi chầu này theo cổ lệ tổng cộng tất cả là 300 dùi chia làm : đệ nhất hồi 80 dùi, đệ nhị hồi 100 dùi và đệ tam hồi 120 dùi. Ngày nay, số dùi được rút ngắn đi chỉ còn 36, 72, 108 dùi hay 20, 40, 60 dùi vì Chánh tế Ca công phụ trách đánh trống chầu thường là người già cả không còn đủ sức để đánh đủ số dùi như qui định.

Ba hồi điểm trống được kết thúc bằng 3 hồi trống to và mạnh, mỗi hồi 3 tiếng, Chánh tế Ca công hô to : “ Ca công tiếp giá”. Lập tức cả đoàn hát bộ đồng thanh dạ một tiếng thật to. Bốn học trò lễ túc trực sẳn vừa mang trống chầu vừa chạy, vừa xoay trống. Chánh Tế Ca Công vừa chạy theo vừa đánh trống cho đến khi trống được đưa đến giá chầu mới thôi và giao dùi cho người khác cầm chầu.

Sau phần đánh trống chầu là đến phần “Đại bội”. Đại bội là cảnh diễn lớn diễn lại cảnh hình thành vũ trụ theo truyền thuyết của dân gian bao gồm các phần :

- Lễ Khai thiên, Lập địa : tượng trưng cho vũ trụ vừa mới được hình thành. Theo truyền thuyết của dân gian, lúc đầu tiên vũ trụ là một khối hỗn độn gọi là “thái cực”. Lúc đó ông Bàn Cỗ được sinh ra nên nhân vật đầu tiên xuất hiện là ông Bàn Cỗ hóa trang mặt rằn như chim, áo ngạch dơi, tay cầm bó nhang ra múa gọi là “điềm hương chiếu lộng bốn phương trời”.Ông chỉ múa mà không hát. Múa xong nhang này được rước lên bàn thờ.


Hình 3 : Tích Bàn cỗ xuất thế.


- Lễ Xang Nhật Nguyệt hay còn gọi là “ lưỡng nghi” tượng trưng cho âm và dương sinh ra từ Thái Cực. Nhân vật nam là Thái Dương mặt đỏ, mặt áo long bào màu đỏ, mang giáp, chân đi hia, tay cầm hình tượng ngọn lửa tượng trưng cho dương là mặt trời . Nhân vật nữ đóng vai Thái Âm mặt trắng, áo trắng, cài trâm, tay mang hình tượng gương sen biểu trưng cho âm là mặt trăng.

Thái Dương và Thái Âm múa xong rồi úp ngọn lửa và gương sen lại với nhau gọi là “ Âm Dương giao hòa” biểu thị rằng vũ trụ bắt đầu sinh sôi nẩy nở.

 

Hình 4 : Âm dương giao hòa trong xang nhật nguyệt
.

- Lễ Tam Tài : hay còn gọi là Tam Tinh. Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân còn Tam Tinh là Phúc, Lộc, Thọ. Biểu trưng cho Phúc là ông già mặt trắng, râu năm chòm đen, đội mũ đằng cân, áo xiêm trường, chân đi hài. Một tay ông bồng một hài nhi còn tay kia cầm quạt lông, cốt cách thần tiên. Biểu trưng cho Lộc là ông già mặt trắng, đội mũ bình thiên, áo đạo bào một tay cầm bình hoa còn tay kia cầm quạt. Để biểu trưng cho Thọ, diễn viên hóa trang thành ông già, da đồi mồi, lông mày bạc, râu năm chòm bạc, đầu bịt khăn đỏ, mặc áo tiên, quần đỏ, một tay cầm dĩa đựng quả đào tiên biểu thị cho sự trường thọ, một tay chống gậy có treo bầu rượu.

Ba người này còn được gọi là Tam Hiền hát câu chúc tụng cho địa phương và dân chúng dự lễ. Sau đó hoa và quả đào tiên được hiến tặng cho ban Quản trị Lăng miếu để lấy lộc.


Hình 5 : Tam tài Phước, Lộc, Thọ.


- Lễ Tứ Thiên Vương : tượng trưng cho tứ tượng : Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm. Tứ Thiên Vương này là bốn vị thần gốc đạo Bà La Môn trấn giữ bốn cửa trời Đông, Tây, Nam, Bắc là : Trì Quốc Thiên Vương ( Virudhaka: Ma Lê Thọ) ; Quảng Mục Thiên Vương (Viruphaksa: Ma Lê Hồng) ; Tăng Trưởng Thiên Vương ( Dhrtarãsha : Ma Lê Thanh) ; và Đa Văn Thiên vương ( Dhanada : Ma Lê Hải ). Trong các chùa của đạo Phật thường thờ bốn vị Thiên Vương này : Đông Phương Ma Lê Thọ cầm con Hoa Hồ Điêu, Tây Phương Ma Lê Hồng tay cầm đàn Tỳ Bà, Nam Phương Ma Lê Thanh cầm cây Thanh Quang Bửu Kiếm, Bắc Phương Ma Lê Hải cầm cây Hỗn Nguyên Châu Tán. Bốn vị thần này có nhiệm vụ tạo ra sấm sét gió mưa điều hòa khí hậu trong dân gian.

Bốn vị Thiên Vương mặt trắng, đội mũ kim khôi, mình đeo giáp, thắt lưng đỏ, chân đi hia, lưng đeo 6 cờ lệnh diễn động tác từ trên trời bay xuống. Mỗi người mang một câu liễn với nội dung như sau :

Phước Như Đông Hải

Thọ Tỷ Nam San,

Quốc Thái Dân An hay Thánh Thọ Vô Cương

Phong Điều Vũ Thuận.

Các Thiên Vương này múa chung với nhau. Điệu múa có động tác mạnh mẽ, đội hình thay đổi, lúc tan lúc hợp tạo bố cục khác nhau : Các tấm liễn có lúc tạo thành hình vuông, có lúc hai ngang hai chéo, có lúc nằm song song nhau theo hình ngang và có lúc cả 4 đồng đứng thẳng.

Đây là điệu múa cung đình tên là “ Trình Tường Tập Khánh” thường được biểu diễn  vào các dịp mừng thọ, đại khánh của vua chúa nhà Nguyễn. Từ đó mới lan truyền ra trong dân gian.

Sau khi múa xong các diễn viên dâng 4 câu liễn cho ban Quản Trị lăng miếu. Đại diện Ban Quản Trị tiếp lấy và thưởng tiền cho các diễn viên.

 


Hình 6  : Tứ Thiên Vương trong Trình tường tập Khánh.

- Lễ Ngũ Hành : Lễ này còn gọi là Lễ Đứng Cái  hay Chưng Đại Bộ .

Để tượng trưng cho ngũ hành ( kim , mộc, thủy, hỏa, thổ) năm diễn viên gồm : một kép đứng ở giữa thủ vai “Cái”, bốn cô đào thủ vai “Con” đứng bốn bên. Vì vậy mà lễ này còn được gọi là “Lễ Đứng Cái”. “ Cái” mặc hoàng bào, đội mão Cửu Long, mặt trắng, tay cầm quạt gọi là “Viên” tượng trưng cho Thổ là vị trí trung ương, bốn “Con” tượng trưng cho tứ thời Xuân, Hạ, Thu, Đông hay 4 yếu tố của ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa.

- Mã Xuân Mai mặc áo xanh, tượng trưng cho mùa Xuân thuộc về hành Mộc.

- Mã Hạ Lan mặc áo đỏ, tượng trưng cho mùa hạ thuộc về hành Hỏa.

- Mã Thu Cúc mặc áo trắng, tượng trưng cho mùa Thu thuộc về hành Kim.

- Mã Đông Trúc mặc áo tím hay đen, tượng trưng cho mùa Đông thuộc về hành Thủy.

Câu chúc tụng của “Cái và 4 Con” ngụ ý chúc cho Vua chúa được vững nghiệp, lê dân được hưởng thái bình, no ấm.

 


Hình 7 : Mã Viên cùng 4 nàng Xuân, Hạ, Thu, Đông hát chúc mừng lễ hội.
 
-Lễ Gia Quan Tấn Tước : dân gian thường gọi là “Thổ Địa dâng liễn”. Lễ này thật ra không nằm trong nghi thức xây chầu mà là một lễ phụ để kết thúc việc xây chầu. Người đóng vai này được gọi là “Linh Quan” mặc áo bào đỏ, đầu đội mảo tam tài, mang mặt nạ trắng, chân đi hia, một tay cầm viết và giấy hồng đơn, một tay cầm tráp mực. Người này viết những câu liễn chúc tụng cho lăng miếu và địa phương mà dân gian tin rằng nó sẽ rất linh ứng. Người dân gọi là ông Địa và ông còn được ngành hát bộ coi là tổ của vai hề.


Hình 8 : Thổ địa  viết  liễn chúc phúc.



Sau lễ Đại Bội, đoàn hát bắt đầu diễn tuồng tích để giúp vui cho Bà Chúa Xứ và người dân xem lễ. Tuồng tích bắt đầu thường là những vở hay như Thần nữ dâng Ngũ linh kỳ ; Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu.... Các suất hát diễn ra trong hai ngày 26 và 27 tháng 4 Âl.  Suất hát cuối cùng bắt buộc phải là vở “ Thứ ba San Hậu” để đoạn chót làm lễ Tôn Vương. Các đào kép trong đoàn hát sẽ dâng lễ lên Bà Chúa Xứ trước khi chuẩn bị làm lễ hồi sắc.

Nghi thức Xây Chầu là một hình tượng độc đáo của hình thức văn hóa và tín ngưỡng được lưu truyền trong dân gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tùy theo phong tục, tập quán của từng địa phương mà nó được cải biên và sửa đổi cho phù hợp. Nó biểu thị cách nhìn về thế giới quan và nhân sinh quan dựa trên nền tảng của 3 tôn giáo đã in sâu trong lòng dân tộc Việt Nam là Phật Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo : Thái cực sinh luỡng nghi, lưỡng nghi sinh tam tài, tam tài sinh tứ tượng, tứ tượng sinh ngũ hành, ngũ hành sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật.

Hiểu biết đầy đủ về nghi thức này cần phải có sự góp sức rất nhiều của các nhà nghiên cứu  về dân tộc và văn hóa dân gian. Do điều kiện và phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ nêu lên đây những nét sơ lược  để người đọc có dịp tìm hiểu khái quát đôi điều về bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước Việt Nam.



                      LÂM THANH QUANG



(1) Theo tự diển Việt Hán của Đào Duy Anh : túc nghĩa là cung kính, yết nghĩa là trình báo, Túc yết có nghĩa là trình báo lên các vị thần những việc xãy ra tại địa phương một cách cung kính.

(2) Tam niên đáo lệ : ba năm mới quay trở lại.

(3) Chánh tế Ca công : người được cử ra để thực hiện việc xây chầu, khác với Chánh Tế là người được cử ra để thực hiện lễ Túc yết và lễ Chánh tế.

(4) Bàn thờ này thờ tiền hiền và hậu hiền và những người khuất mày khuất mặt có công khai phá địa phương.

Tài liệu tham khảo :

-   Lịch sử miếu Bà Chúa Xứ núi Sam do hội văn nghệ Châu Đốc và Ban quản trị Lăng miếu núi Sam xuất bản năm 2004.

-   Hành hương về đất phương Nam.