Trang

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012

Thoại Ngọc Hầu , công danh sự nghiệp và nỗi án oan.



Thoại Ngọc Hầu, công danh sự nghiệp và nỗi án oan .

LTQ

Nhân kỷ niệm 180 năm này mất của Nguyễn văn Thoại (1761-1829) tước Thoại Ngọc Hầu còn được gọi là Bảo Hộ Thoại : một danh tướng của triều Nguyễn đã có công trong việc bảo vệ và khai phá vùng đất An Giang vào ngày mùng 6 tháng 6 âl; ngày 25/7/2009 tại thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang một cuộc hội thảo về thân thế và sự nghiệp của ông đã được tổ chức với sự góp mặt của nhiều học giả từ hơn 30 tỉnh thành về đây tham dự. Bên cạnh đó một lễ hội đường phố hoành tráng để đưa linh vị của ông từ đình thần Châu Phú đến sơn lăng nằm dưới chân núi Sam cũng đã được thực hiện lúc 17 giờ ngày 26/7/2009. Đây là tấm lòng của của người dân An Giang đối với một vị công thần đã để lại cho người đời sau những công trình đã đi vào lịch sử như đào kinh Thoại Hà, Vĩnh Tế và xây dựng con đường Châu Đốc tân lộ kiều lương nối liền từ Châu Đốc đến núi Sam ... ; đem lại ấm no cho dân chúng ở vùng đất Tây Nam bộ ngày nay.

 
Hình 01 Lăng Thoại Ngọc Hầu lúc chưa trùng tu.
Mở đầu cuộc hội thảo, nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký hội Sử học Việt Nam đã đưa ra quan điểm :
“ Để đánh giá chính xác một nhân vật lịch sử phải đặt mình vào hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Cần phải đánh giá những mặt tích cực lẫn tiêu cực của nhân vật đó. Tránh trường hợp chỉ nhìn thấy một mặt mà không nhìn thấy mặt kia, dễ dẫn đến trường hợp làm sai lệch lịch sử...”


 Hình 02 : Nhà sử học Dương Trung Quốc phát biểu tại buổi hội thảo.
Hội thảo xoay quanh 4 chủ đề chính : thân thế của Thoại Ngọc Hầu khi lưu lạc từ làng An Hải huyện Diên Phước tỉnh Quãng Nam đến cù lao Dài tỉnh Vĩnh Long, nhân cách của ông trên cương vị một nhà quân sự, ngoại giao và quản lý,  những công trình để lại cho người đời sau và nỗi án oan mà ông phải chịu đựng hơn 95 năm.
Hình 03 : Bia mộ Thoại Ngọc Hầu tại sơn lăng.
Tuổi thơ của Nguyễn văn Thoại đã trãi qua những năm tháng loạn lạc trong cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn nên phải lưu lạc từ Quãng Nam đến cù lao Dài bên dòng sông Cổ Chiên tỉnh Vĩnh Long để lập nghiệp. Dầu không tốt nghiệp khoa cử nhưng ông đã có một ý chí phấn đấu và tự học rất cao. Điều đó  được thể hiện qua những lần đi sứ sang Lào, Xiêm , lảnh ấn bảo hộ Cao Miên cùng với những công trình đào kinh Thoại Hà, Vĩnh Tế và những bài bi ký ghi lại việc đào kinh Thoại Hà và Vĩnh Tế... Nổi bật nhất là bài Tế Nghĩa Trũng Văn tỏ lòng biết ơn những nghĩa sĩ đã hy sinh trong việc đào kinh Vĩnh tế.
Năm 16 tuổi đã theo Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn,ông đã từng được phong là Thượng đạo Đại Tướng quân vào năm 1799. Do tính tình rất ngay thẳng và rất trọng nghĩa khí nên ông dễ làm cho nhiều người mến nhưng cũng làm mất lòng một số người. Tình bạn của ông cùng với Thượng tướng Trần Quang Diệu của Tây Sơn cũng là một giai thoại mà người đời sau thường truyền tụng.
Chuyện xưa kể rằng lúc nhỏ ông và Trần Quang Diệu là bạn láng giềng chơi thân với nhau. Khi hai người đang tắm trên sông Hàn thì gặp một viên quan sở tại đi ngang qua. Nguyễn văn Thoại tinh nghịch té nước vào viên quan đó nên ông này tức tối nhảy xuống đánh Thoại. Trần Quang Diệu vốn giỏi võ nên xông vào tiếp cứu và đánh viên quan này một trận tơi tả. Cũng vì việc này mà cha mẹ Nguyễn văn Thoại là ông Nguyễn văn Lượng và bà Nguyễn thị Tuyết mới cùng các con trốn vào Cù lao Dài trên sông Cổ Chiên ( Vĩnh Long) và gia đình Trần Quang Diệu cũng bỏ xứ về quê ngoại ở làng Trà Khê, nay thuộc huyện Ngũ Hành Sơn, tỉnh Quãng Nam, sau đó đầu quân cho Tây Sơn. Khi gặp lại nhau ở hai bên chiến tuyến vào năm 1801, lúc từ Vạn Tượng đánh vào Phú Xuân, nghe tin Trần Quang Diệu từ Qui Nhơn cầm binh ra tiếp cứu ; Nguyễn văn Thoại giao binh quyền cho phó tướng là Lưu Phước Tường và bỏ vào Gia Định. Vì vậy mà ông bị Nguyễn Ánh bắt tội không có lệnh của vua mà tự tiện về, giáng xuống làm cai đội cai quản đạo Thanh Châu.
Khi vua Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802, trong dịp khen thưởng những người có công, ông cũng chỉ được phong làm Khâm Sai Thống binh cai cơ sau mới thăng làm Chưởng cơ. Mặc dầu vậy ông vẫn một mực trung thành với vua mà không hề oán than, phiền trách. Mãi đến mấy năm sau khi ra  Bắc tham gia thu phục Bắc thành, ông mới được phong chức Trấn thủ Bắc Thành và trấn thủ Lạng Sơn rồi đến năm 1808 mới về trấn thủ Định Tường. Năm 1813 ông đưa Nặc Ông Chân về nước và ở lại nhận chức Bảo hộ Cao Miên. Bốn năm sau ông mới được về trấn thủ Vĩnh Thanh ( 1).
Khi về trấn thủ Vĩnh Thanh, nhận thấy nhân dân vùng An Giang phải gánh chịu trận lũ lụt hàng năm kéo dài đến 6 tháng, đời sống cơ cực nên ông mới xin vua Gia Long cho đào hai con kinh Thoại Hà và Vĩnh Tế để tháo nước ra biển Tây, giúp cho việc đi lại dễ dàng và rửa phèn cho vùng tứ giác Long Xuyên để người dân yên tâm sinh sống.

 Hình 04 : Nhà hát tuồng Đào Tấn Đà Nẳng kỷ niệm 180 năm ngày mất Thoại Ngọc Hầu.

Kinh Thoại Hà được khởi công vào đầu năm 1818 nối liền rạch Tam Khê (nay là sông Long Xuyên ) với ngọn rạch Giá Khê của Rạch Giá dựa theo những lạch tự nhiên đã có từ trước nên công việc được tiến hành thuận lợi. Tổng chiều dài kinh này trên 30km nhưng phần phần đào mới chỉ chiếm phần nhỏ, còn lại chỉ là nạo vét và mở rộng chiều ngang. Vì vậy với số lượng nhân công đào khoảng 1500 người nhưng chỉ trong hơn 1 tháng đã hoàn thành. Đây là một công trình thủy lợi và giao thông dầu tiên trên đất An Giang và là một cuộc tổng diễn tập cho việc đào kinh Vĩnh Tế  vốn qui mô và gian khổ hơn nhiều. 

 
Hình  05 : Đọc văn bia Thoại Hà sơn và Vĩnh tế sơn.

 Hình 06 : Đọc Tế nghĩa trũng văn.
Khi công trình hoàn thành, vua Gia Long khen ngợi và cho phép ông lấy tên kinh mới đào là Thoại Hà và núi Sập đổi tên là Thoại sơn. Để đánh dấu công trình mang nhiều ý nghĩa này, năm 1822 ông cho khắc bia Thoại Sơn và làm lễ dựng bia tại miếu sơn thần trên triền núi .
Mặc dầu kinh Vĩnh Tế được đào sau (năm 1819) nhưng với chiều dài hơn 90 km nối liền từ Châu Đốc đến Giang Thành, Hà Tiên lại phải qua nhiều núi non nên chiếm rất nhiều thời gian và công sức. Theo Tiến sĩ BS Châu Hữu Hầu nghiên cứu về kinh Vĩnh Tế thì thời gian thực sự để đào kinh này chỉ hơn 10 tháng với tổng chiều dài phải đào là 37.190m. Phần còn lại là chiều dài sẵn có của sông Giang Thành hơn 42km và phần đầm , lung sẵn có trong tự nhiên như đầm Trích... cũng hơn 10km. Thời gian hoản đào là 43 tháng do nhiều nguyên nhân khác nhau như : Vua Minh Mạng lên ngôi, dịch tả xuất hiện(2), loạn Sải Kế(3), dân Cao Miên bị đói, mùa nước lũ của sông Cữu Long(4)..... Tổng số lượt nhân công trên 90.000 người nhưng lần huy động đông nhất cũng chỉ trên 45.000 bao gồm cả dân quân người Việt và Cao Miên.

Việc đào kinh Vĩnh Tế mang một tầm vóc chiến lược lớn lao bao gồm về quân sự,giao thông lẫn thủy lợi. Về mặt quân sự, nó là vành đai biên giới ngăn cách giữa Việt Nam và Cao Miên đồng thời giúp cho thành Châu Đốc và thành Hà Tiên có thể tiếp cứu lẫn nhau khi có giặc. Việc đào kinh Vĩnh Tế giúp cho dân qui tụ về đây sinh sống dọc theo hai bên bờ kinh và thành lập 5 ngôi làng từ Châu Đốc đến Giang Thành là Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia và Vĩnh Điều. Một trong những chiến lược quan trọng của kinh Vĩnh tế chính là xã nước lũ về biển Tây, rửa phèn cho vùng Tứ Giác Long Xuyên. Công trình này vẫn còn tác dụng đến ngày nay và được tiếp nối với sự chỉ đạo của cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt cho đào các kinh T4, T5, T6 để chia nước cùng với kinh Vĩnh Tế xả lũ ra biển Tây. Tháng 5 năm 2009, kinh T5 được HĐND tỉnh An Giang thống nhất đặt tên là kinh Võ văn Kiệt để tưởng nhớ công lao của ông đối với đất An Giang.
Đến năm 1824 kinh được hoàn thành và được mang tên bà Châu thị Tế (chính thất của ông) là người có công rất lớn trong việc quản lý khâu hậu cần phục vụ cho việc đào kinh.Có tư liệu cho rằng tên Vĩnh Tế được đặt trước khi đào con kinh bởi vì kinh này đã có kế hoạch trước đó và chính Hiệp Trấn Hà Tiên lúc bấy giờ là Mạc Công Du nhận nhiệm vụ khảo sát và vẽ lại bản đồ để gửi về Phú Xuân trình cho vua Gia Long xét duyệt.
Việc đào kinh được thành công tốt đẹp nhưng hơn 6000 nhân công đã bỏ thây nơi miền hoang dã. Phần lớn chết vì bệnh dịch tả vào năm 1820-1823, số còn lại bị tai nạn trong lúc lao động hoặc lâm cảnh “ hùm tha, sấu bắt”. Những người chết được chôn dọc theo hai bờ kinh Vĩnh Tế đến nay đã mất dấu tích. Một số khác được qui tập về chôn ở hai bên lăng Thoại Ngọc Hầu bao gồm những gia tướng và một số đội trưởng chỉ huy công trình. Ông cho xây miếu Âm hồn dưới chân núi Sam cách lăng hơn 500m để thờ những nghĩa sĩ đã hy sinh và làm bài Tế Nghĩa trũng văn để tri ân những nghĩa sĩ này. Đây là một áng văn hay làm cảm động lòng người được truyền tụng đến ngày nay.
.....Đào kênh trước mấy kì khó nhớ,
Khoác nhung y chống đỡ biên cương.
Xông pha máu nhuộm chiến trường,
Bọc thây da ngựa gởi xương xứ này.
...... Giờ ta vâng lệnh bệ rồng,
Dời ngươi an táng nằm chung chốn này.
Chọn đất tốt thi hài an ổn,
Cảnh trời thanh vui nhộn cùng nhau.
Hằng năm cúng tế dồi dào,
Tràn trề lễ trọng dám nào để vơi....
Kinh Vĩnh tế sau khi đào xong được vinh dự khắc vào Cao đỉnh (5) : một trong những củu đỉnh đặt trước ngọ môn Huế. Thoại Ngọc Hầu cũng cho khắc bia Vĩnh Tế để ghi lại công trình này. Tiếc rằng nguyên bản của bia đã bị thất lạc chỉ còn lại bia mới được phục chế đặt tại Long đình trước sân lăng.
Sau khi kinh Vĩnh Tế hoàn thành cũng là lúc hai bà vợ của ông qua đời ( bà Trương thị Miệt mất năm 1821 còn bà Châu thị Tế mất năm 1826) chỉ còn lại mình ông. Ông cho xây dựng sơn lăng dưới chân núi Sam để an táng cho hai bà và cũng để làm nơi an nghỉ của mình sau này. Công trình này bắt đầu khởi công vào năm 1824 và  hoàn thành vào năm 1828. Đây là một công trình kiến trúc đậm nét văn hóa của lăng tẩm cố đô Huế , được bố trí hài hòa với cảnh quan chung quanh. Bước lên những bậc thang được làm bằng đá ong được mang từ Biên Hòa vào là một khoảng sân rộng và phẵng rồi mới đến hai cửa lăng nằm ở hai bên. Lăng được bao bọc bởi một lớp tường thành dày hơn 1m, cao khoảng hơn 2m làm bằng chất liệu hỗn hợp vôi, cát, mật đường và nhựa ô dước mặc dầu trãi qua gần 200 năm nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Ngôi mộ của ông nằm ở chính giữa sau bức bình phong còn hai vị phu nhân ở hai bên : nhìn từ trước vào thì mộ chính thất Châu thị tế nằm ở bên trái còn thứ thất Trương thị Miệt nằm phía bên phải nhỏ hơn và hơi lui về phía trước. Trong vòng thành sân lăng còn có 14 ngôi mộ bằng ô dước của những thân nhân theo ông hy sinh trong thời gian đào kinh. Có tư liệu cho rằng đây là mộ của gánh hát bộ Quãng Nam đã chết trong khi phục vụ cho dân binh đào kinh Vĩnh Tế. Tuy nhiên đây mới chỉ là phỏng đoán chứ chưa được kiểm chứng chính xác.
Ở hai bên lăng còn có gần 100 ngôi mộ lớn nhỏ của các nghĩa sĩ chết trong lúc đào kinh Vĩnh tế được qui tập về đây. Tiếc rằng một số ngôi mộ ở bên phải lăng vào đầu thập niên 70 thế kỷ 20 đã bị phá bỏ khi xây dựng lăng miếu Khổng Tử còn phía bên trái trở thành nơi trưng bày cây cảnh um tùm khiến khách tham quan khó tìm lại những hình ảnh của những ngôi mộ xưa.
Năm 1826-1827, ông huy động gần 4500 nhân công đắp con lộ từ Châu Đốc ( bắt đầu từ đình Châu Phú ngày nay ) đến núi Sam dài 5km để người dân có thể đi lại dễ dàng và tránh lũ trong mùa nước nổi. Con đường này qua 4 cây cầu bằng ván có thể cho xe ngựa qua được. Đến nay chỉ còn lại 2 cây cầu tồn tại là cầu số 2 và cầu số 4 còn hai cây cầu kia ( một ở đầu đường Cử Trị và một ngã tư quốc lộ 91) thì bị lấp từ thời Pháp thuộc. Sau khi con đường hoàn thành ông đặt tên là Châu Đốc Tân lộ kiều lương và lập bia ký dưới chân núi Sam để kỷ niệm. Bia này đến nay đã bị thất lạc không còn dấu tích.
Trong những năm cuối đời , mặc dầu đã mõi mệt nhưng ông cũng cố gắng hoàn thành con đường từ Châu Đốc đến Lò Gò để người dân có thể từ Châu Đốc đi thẳng đến biên giới Cao Miên.
Ông mất vào ngày mùng 6 tháng 6 âl năm 1829 tại thành Châu Đốc (6). Linh cữu của ông được quàn tại thành hơn 1 tháng đề các quan chức và nhân dân các nơi đến phúng điếu chia buồn, sau đó mới đem an táng tại lăng bên cạnh hai bà vợ đã mất trước đó.
Sau khi ông mất thì xãy ra một oan án kéo dài đến 95 năm mới được giải oan. Sự việc này cũng được các nhà nghiên cứu phân tích rất rõ trong buổi hội thảo. Vào khoảng năm 1830 Lê văn Duyệt sai Hình tào Võ Du đi kiểm tra tình hình dân chúng ở biên giới. Võ Du không tra xét kỹ càng lại về tâu lại với Lê văn Duyệt rằng :
- Trong thời gian làm Bảo hộ Cao Miên hay tự quyền quyết định, xen vào nội bộ của Cao Miên khiến vua Cao Miên bất bình.Ông lại bắt dân phu Cao Miên đi lấy gỗ táu đem nộp mà không trả tiền khiến dân tình thán oán.
- Khi cho dân chúng khai hoang lập ấp ở hai bờ kinh Vĩnh tế lại tự tiện xuất của kho công ra cho dân chúng vay mượn, sau đó mới xuất của nhà để trả lại.
- Lợi dụng việc công để làm việc riêng như việc đắp đường từ Châu Đốc đến Núi Sam để đưa linh cữu của vợ là Châu thị Tế đến chôn tại lăng.
Nghe Lê văn Duyệt báo về với triều đình, vua Minh Mạng không tra xét rõ đã vội vàng quyết định giáng ông xuống 5 cấp từ Chánh Nhất phẩm xuống Tòng tam phẩm (7), tịch thu hết tất cả ruộng đất có được trong lúc đi khai phá. Hai con trai là Nguyễn văn Tâm ( con bà Châu thị Tế ) và Nguyễn văn Minh (con bà Trương thị Miệt) mất chức tập ấm và sợ bị tội đành phải trốn về quê.
Các công trình của Nguyễn văn Thoại làm lúc đương thời cũng đành phải bỏ dỡ như miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, chùa Tây An.....
Mấy năm sau sự việc được xét lại mới thấy rằng những chứng cứ đưa ra hoàn toàn vô lý, không rõ ràng :
-Với vai trò là một sứ thần của nhà Vua trông coi việc Bảo hộ Cao Miên vì đường sá xa xôi cách trở không thể mỗi chuyện gì cũng phải báo về. Vua Minh Mạng cũng đã có thư khuyên nhủ Nguyễn văn Thoại hãy cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, đừng chán nãn mà xin từ chức. Thư này hiện nay vẫn còn được lưu trữ tại gia đình ông Nguyễn Khắc Mi và bà Nguyễn Hồng Diệp tại thị xã Châu Đốc cùng với sắc phong của vua Minh Mạng cho cha và mẹ của Nguyễn văn Thoại là ông Nguyễn văn Lượng và bà Nguyễn thị Tuyết. Gia đình này là một chi nhánh của dòng họ Nguyễn Khắc ở cù lao Dài là hậu duệ của bà Nguyễn thị Tuyết. Việc cho là ông lợi dụng dân phu Cao Miên đi lấy gỗ táu cũng được sự xác nhận của vua Cao Miên là người dân phu đã nhận đủ tiền và gạo. Nếu ông tỏ ra chuyên quyền độc đoán trong việc bảo hộ Cao Miên thì tại sao vua Cao Miên lại có nhã ý dâng 3 phủ Lợi ỷ Bát, Chân Sâm, Mật Luật để cảm ơn ông ? Ông không dám nhận mà tâu rõ về triều đình và vua Minh Mạng quyết định chỉ nhận đất của 2 phủ Chân sâm và Mật Luật còn tiền thu thuế của người dân thì giao về cho vua Cao Miên giữ. Chính vì việc này mà vua Minh Mang nghi ngờ ông cũng cố quyền lực của mình nơi biên giới nên mới để xãy ra vụ án oan.
- Việc ông tự ý xuất của kho công để cho người dân khai hoang vay sau đó mới đem của nhà trả lại cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân như con của ông. Khi người dân mới bắt đầu khai khẩn, thu hoạch chưa được gì thì làm sao ông nở đứng nhìn người dân chết đói ?
- Việc đắp đường Châu Đốc Tân lộ kiều lương bắt đầu khởi công vào tháng chạp năm 1826 tức sau ngày bà Châu thị Tế mất hơn 2 tháng thì làm sao có thể nói rằng ông lợi dụng việc công để làm việc riêng. Vả lại kinh phí đắp đường này là do bổng lộc của các quan địa phương cùng nhân dân đóng góp chứ không lấy của công một dồng nào.
Mặc dầu sự thể đã rõ ràng và Hình bộ xử Võ Du tội đồ về tội cáo gian nhưng vua Minh Mạng vẫn nương nhẹ hình phạt bằng hình thức cách chức và phát đi Cam lộ gắng sức làm việc để chuộc tội. Riêng đối với Nguyễn văn Thoại vẫn giữ y mức án cũ vì đã sai dân Phiên làm việc riêng, sửa mộ, đắp đường. Điều này chứng tỏ rằng việc làm của vua Minh Mạng là có chủ đích, sợ rằng sẽ xãy ra một Lê văn Duyệt thứ hai (8). Ngoài ra mối nghi kỵ của vua Minh Mạng về quan hệ giữa Nguyễn văn Thoại và Thượng tướng Trần Quang Diệu của Tây Sơn vẫn còn đó , “ thà giết lầm hơn bỏ sót” nên nhà vua phải xuống tay mặc dầu vẫn biết rằng ông bị cáo gian.
Mãi đến năm 1924 dưới triều vua Khải Định, triều đình mới quyết định truy phong cho ông làm Trung Đẵng Phúc thần làng Vĩnh Tế. Đình này mới được xây cất và sửa sang lại để trở thành một di tích cấp tỉnh như ngày nay.
Đại diện của hậu duệ Nguyễn văn Thoại đến từ Đà Nẵng đã tặng thị xã Châu Đốc bức ảnh nhà kỷ niệm Thoại Ngọc Hầu tại làng An Hải Tây, huyện Sơn Trà, thành Phố Đà Nẵng mới vừa hoàn thành vào tháng 5 năm 2009 này với kinh phí hơn 7 tỉ đồng. Một tin vui nữa là ngôi mộ của Thượng Tướng Trần Quang Diệu cũng đã được đưa về an táng tại đây. Cũng tại buổi hội thảo này hai hậu duệ của Nguyễn văn Thoại và bà Nguyễn thị Tuyết lần đầu tiên gặp nhau, mừng mừng tủi tủi với những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Hàng ngàn người dân đứng dọc theo hai bên đường từ Châu Đốc đến Núi Sam để đưa linh vị Thoại Ngọc Hầu từ đình Châu Phú về đến lăng miếu. Lễ hội được phục chế với những đoàn lân sư rồng mở đường, binh sĩ mặc áo lính thời xưa cầm cờ lọng và vũ khí tiếp nối cùng với những đoàn xe ngựa chở các vị bô lão đi trước xe chở linh vị. Đặc biệt là đoàn binh sĩ đi “cà kheo” là một công cụ quen thuộc của vùng đất Nam bộ để đi trên đất sình lầy. Hình ảnh này khiến các du khách nước ngoài ngạc nhiên và thích thú, máy ảnh trên tay cứ chớp sáng liên hồi.
Lễ đọc bia kí Vĩnh Tế hà và Tế nghĩa trũng văn cũng đã được phục hiện với đoàn hát tuồng từ Đà Nẵng vào. Giữa âm thanh lắng đọng tại sơn lăng, lời văn hùng hồn  của bia kí Vĩnh Tế hà cũng như cảm động của bài Tế Nghĩa trũng văn làm mọi người bồi hồi khi nghĩ đến công lao  của bậc tiền nhân khi đến khai phá vùng đất này. Tiếng gió thổi tựa như những linh hồn của nghĩa sĩ từ những ngôi mộ ở hai bên lăng về đây hồi tưởng lại quảng đời gian khổ mà mình đã trãi qua.
Sinh vi tướng, tử vi thần” , đó là tấm lòng của người dân An Giang đối với người đã dành trọn cuộc đời mình để biến một vùng đất hoang vu thành nơi đô hội như hiện nay. Bất chấp lệnh cấm của Triều đình Huế , sau khi ông bị án oan người dân vẫn lén lút đem bài vị của ông về thờ tại miếu bà Chúa Xứ núi Sam và hằng năm vẫn tế lễ theo nghi thức một Thành Hoàng cho đến ngày ông được giải án oan. Hiện nay linh vị của ông vẫn còn được lưu giữ tại đình Châu Phú và hàng năm vào ngày giỗ mới được rước về sơn lăng dưới chân núi Sam đối diện với miếu Bà Chúa Xứ.
Việc tổ chức lễ hội đường phố này cũng nhằm mục đích giáo dục cho thế hệ trẻ sau này những hiểu biết về lịch sử của địa phương vốn không được chú trọng trong môn lịch sử tại các lớp phổ thông. Mong rằng nó sẽ được nâng cấp thành lễ hội văn hóa cấp vùng để có thể được phổ biến rộng rãi phù hợp với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Hình 07 : Xe đưa linh vị Thoại Ngọc Hầu từ đình Châu Phú về sơn lăng trong lễ hội
 tôn vinh TNH năm 2009.

  Hình 08 : Tái hiện hình ảnh quân lính đi cà kheo trong lễ hội tôn vinh TNH năm 2009.

 
 Hình 09 : Xe ngựa tham gia lễ hội.
Khoảng đầu tháng 9 năm 2009, công trình trùng tu lăng miếu Thoại Ngọc Hầu đã được tiến hành sau khi có quyết định cho phép của Bộ Văn Hóa, Du lịch và Thể Thao và các ngành chức năng trong tỉnh An Giang với kinh phí 10 tỷ đồng từ nguồn quỷ của Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam do Công ty TNHH Nguyễn Đỗ TPHCM tư vấn và thiết kế và công ty Hà Phúc thi công. Việc thi công tiến hành theo 2 giai đoạn :
- Giai đoạn 1 với kinh phí 3 tỷ đồng bao gồm việc tu bổ các tường thành quanh lăng và cổng lăng, mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân là Châu thị Tế và Trương thi Miệt, lót lại nền lăng và ngôi đền phía sau lăng.

 
Hình 10 : Tường thành của lăng bị mục nát.

Hình 11 : Công nhân đang tu sửa cổng lăng.
 Được xây dựng cách nay hơn 180 năm, các vách tường thành bằng vôi cát cùng với nhựa ô dước xung quanh lăng đã bị xoáy mòn và có nguy cơ đổ sụp. Các công nhân tiến hành dục những phần vôi đã bị phân hủy một cách cẩn thận, sau đó mới dùng một lớp keo bắn vào để giữ vững kết cấu của lớp vôi chưa bị phân hủy, tiếp đến mới dùng vôi tam hợp để tô lại. Tiếc rằng nhựa ô dước hiện nay không còn tìm được nên phải dùng vôi tam hợp để thay thế nhưng vẫn đảm bảo được tính bền vững và màu sắc cổ kính của tường thành. Vôi tam hợp này gồm 3 thành phần là xi măng, vôi, cát theo công thức của người Pháp khi xây dựng các công trình ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Sàn lăng và bên trong đền thờ phía sau lăng sẽ được lót lại bằng đá ba dan lấy từ Thanh Hóa. Những tấm bia phía sau cổng lăng cũng sẽ được phục chế lại và đặt ở trong nhà bia. Thời gian dự trù thi công giai đoạn 1 là 4 tháng để kịp hoàn thành trước tết Nguyên đán 2010. 
Giai đoạn 2 với kinh phí khoảng 7 tỷ đồng bao gồm việc tiến hành trùng tu lại các ngôi mộ chung quanh lăng, giải tỏa những nhà dân lấn chiếm quanh lăng, xây dựng nhà bia và nhà trưng bày những di tích. 

Hình 12 : Vị trí 1 phát hiện hầm tùy táng.

Hình 13 :  Vị trí 2 phát hiện hầm tùy táng.

 
Hình 14 : Lăng Thoại Ngọc Hầu sau khi trùng tu.
 

Hình 15 : 14 ngôi mộ trong vòng thành đã được sửa sang.
 
 Hình 16 : Sơ đồ phối cảnh công trình trùng tu lăng Thoại Ngọc Hầu.
Điều bất ngờ là trong lúc thi công  người ta khám phá ra hai hầm có chứa những di vật từ thời xây dựng ngôi lăng và đền thờ phía sau lăng gồm những đồ dùng sinh hoạt thời xưa như chén, dĩa, tô cổ và một số nữ trang cùng với vài thỏi kim loại màu vàng có niên hiệu từ thời Minh Mạng. Ngoài ra người ta còn tìm được áo mão của ông Thoại Ngọc Hầu còn nguyên vẹn bên trong hầm phía phải sát ngôi mộ của ông. Các nhà khảo cổ cho rằng đây là những vật dụng tùy táng của Ông và phu nhân Châu thị Tế sau khi họ qua đời. Đây cũng có thể là một tín hiệu của người xưa để dành lại cho con cháu mai sau biết được những sinh hoạt của các bậc tiền nhân khi vào khai phá vùng đất mới này. Hiện những di vật này đã được niêm phong và bảo quản cẩn thận tại miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam trong khi chờ sự giám định của bộ Văn Hóa, Du Lịch và Thể Thao và ngành Bảo tàng An Giang. Công trình xây dựng nhà bảo tàng chứa những hiện vật này đang được khởi công và dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2012 để du khách và các nhà khảo cứu đến tham quan, tìm hiểu.

LÂM THANH QUANG
Chú thích :
1. Trấn Vĩnh Thanh bao gồm các tỉnh như Đồng Tháp, Vĩnh Long và các tỉnh nằm bên bờ Hậu Giang như TPCần Thơ, Kiên Giang, An Giang...
2. Theo tư liệu khảo cứu của TS Bác sĩ Châu Hữu Hầu thì vào khoảng năm 1817-1823  trên thế giới xãy ra trận dịch tả làm chết nhiều người. Riêng tại Việt Nam số người chết khoảng vài trăm ngàn người chiếm khoảng 5% dân số lúc đó. Do điều kiện sơn lam chướng khí, dinh dưỡng kém, vệ sinh không đảm bảo...  nên số người chết vì bệnh dịch tả chiếm tỉ lệ rất cao trong số những người hy sinh khi đào kinh.
3. Sải Kế vốn là một nhà sư người Cao Miên tự xưng mình là Phật Vương qui tụ một số người Việt gốc Cao Miên nổi lên làm loạn, cướp phá khắp nơi làm dân tình thán oán phải bỏ xứ mà đi. Triều đình cử nhiều người đi dẹp nhưng không thành. Cuối cùng Nguyễn văn Thoại với mưu trí và lòng dũng cảm của mình đã bắt được Sải Kế xử chém, toán cướp phải xin hàng.
4. Vùng An Giang hàng năm phải chịu 6 tháng lũ từ đầu tháng 5 âl đến hết tháng 10 âl. Do điều kiện đi lại khó khăn, không trồng lúa được nên người dân vào tháng này rất đói khổ, việc đào kinh cũng phải dừng lại vì nước lũ.
5. Cao đỉnh là một trong Cữu đỉnh được vua Minh Mạng cho đúc vào cui năm 1835, hoàn thành vào năm 1837 trên đó có khắc những công trình quan trọng,  cùng với cây cỏ hoa lá biểu tượng cho sự giàu đẹp ở mọi miền đất nước. Cữu đỉnh gồm :
- Cao Đỉnh: tương ứng với Thế Tổ Cao Hoàng Đế, vua đầu tiên của triều Nguyễn có niên hiệu là Gia Long.
- Nhân Đỉnh: tương ứng với Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, niên hiệu Minh Mạng.
- Chương Đỉnh : tương ứng với Hiến tổ Chương Hoàng Đế, niên hiệu Thiệu Trị.
- Anh Đỉnh : tương ứng với Dực Tông Anh Hoàng Đế, niên hiệu Tự Đức.
- Nghị Đỉnh : tưng ứng với Giản Tông Nghị Hoàng Đế, niên hiệu Kiến Phúc.
- Thuần Đỉnh : Tương ứng với Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế, niên hiệu Đồng Khánh.
- Tuyên Đỉnh : tương ứng với Hoàng Tông Tuyên Hoàng Đế, niên hiệu Khải Định.
- Dụ Đỉnh.
- Huyền Đỉnh.
Vua Dục Đức và Hiệp Hòa vì chống đối với hai đại thần là Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết nên bị phế truất và bị giết, còn các vua Hàm Nghi, Duy Tân và Thành Thái vì chống đối người Pháp mà bị phế truất và lưu đày nên không được chọn tên trên cữu đĩnh. Riêng vị vua cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại cũng vậy, do từ bỏ ngôi vua năm 1945 nên cũng không được cho là biểu tượng trên cữu đỉnh.
6. Thành Bảo hộ tức là thành Châu Đốc ngày xưa nằm ở vị trí Doanh trại bộ đội Biên Phòng An Giang hiện nay. Nó còn có tên gọi là thành CB vào thời Pháp và Mỹ . Ngày xưa thành nằm ở vị trí ngã ba sông do cồn Tiên chưa được bồi như hiện nay. Vào khoảng đầu năm 1970 khi sửa chữa thành người ta bắt gặp nền móng của thành cổ nằm ở bên dưới.
7. Mỗi phẩm hàm có hai bậc chánh và tòng. Giáng xuống 5 cấp tức là từ Chánh nhất phẩm xuống Tòng tam phẩm chứ không phải là chánh ngũ phẩm như một số nhà khảo cứu nghĩ lầm.
8. Lê văn Duyệt vốn là thái giám theo phò Nguyễn Ánh lúc 17 tuổi. Ông đã cùng các tướng lảnh khác giúp Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, Phú Xuân và thu phục Bắc Thành. Ông được phong chức Quận Công và trấn thủ Gia Định Thành hai lần : lần đầu từ 1813-1816, và lần sau từ 1820-1832. Ông có quyền hành rất rộng cai quản cả vùng Bình Thuận và trấn Hà Tiên. Do ông chọn con của Hoàng tử Cảnh lên ngôi thay vì Hoàng Tử Đảm ( vua Minh Mạng sau này) nên giữa ông và vua Minh Mạng xãy ra mối bất hòa. Trong lúc đương thời, ông cho phép các thuyền buôn nước ngoài được tự do buôn bán và các giáo sĩ Thiên Chúa được tự do truyền đạo nên khiến vua Minh Mạng càng căm ghét. Sau khi mất, ông bị triều đình kết tội chuyên quyền và bị xiềng mộ lại khiến người Gia Định thán oán mới xãy ra loạn Lê văn Khôi sau này. Ngôi mộ của ông hiện nay ở quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh thường được gọi là Lăng Ông Bà Chiểu, thường ngày được nhân dân trong vùng đến thắp hương cúng bái.