Trang

Thứ Ba, 16 tháng 10, 2018

Bia Vĩnh Tế sơn.


Bia “Vĩnh Tế Sơn”
Một bảo vật quốc  gia đang bị lãng quên

H01  Lăng Thoại Ngọc Hầu dưới chân núi Sam khi chưa trùng tu.
Bia Vĩnh Tế Sơn hay còn được gọi là “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bi ký” là một bài văn do Thoại Ngọc Hầu cho ghi chép lại việc khai phá vùng đất Châu Đốc ngày nay, đồng thời ghi nhớ ơn vua đã lấy tên phu nhân Châu Thị Tế đặt tên mới cho núi Sam là Vĩnh Tế Sơn.
Bia do Thoại Ngọc Hầu Nguyễn văn Thoại soạn và cho người khắc vào năm Minh Mạng thứ 9 ( 1828) ; sau khi việc đào kinh Vĩnh Tế hoàn thành (1819-1824) và con đường Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương ( 1826-1827) cũng vừa được đắp xong. Bia được dựng nơi sơn lăng dưới chân núi Sam, đối diện với Miếu Bà Chúa Xứ. Đây là nơi đã được chọn làm chốn yên nghỉ của ông và hai vị phu nhân là Châu Thị Tế và Trương Thị Miệt.  
Sau khi hoàn tất việc đào kinh Vĩnh Tế , con lộ từ Châu Đốc đến chân núi Sam cũng được Thoại Ngọc Hầu khẩn trương khởi công vào năm 1826 và hoàn tất vào năm 1827. Con lộ này có chiều dài khoảng 5km, bề ngang hơn 5m chạy từ chân núi Sam đến nội ô Châu Đốc tên là “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” . Sau khi con lộ được hoàn thành, ông đã cho dựng tại chân núi Sam bia Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương. Tiếc thay tấm bia đã bị vỡ, người ta chỉ tìm được vài mảnh của bia có ghi bốn chữ “ Châu Đốc Tân lộ…..” gần lăng Thoại Ngọc Hầu (1). Sau đó, ông đã tiến hành  xây dựng sơn lăng vào năm 1828 cho hai vị phu nhân và cũng là nơi an nghỉ sau cùng của mình. Đây là tâm nguyện cuối đời của ông vì khi đó ông đã ở gần tuổi thất thập cổ lai hy.
Cũng trong năm này, ông cho soạn thảo bia “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn” hay còn được gọi tắt là bia Vĩnh Tế Sơn. Đây là một áng văn chương tuyệt tác ghi lại sự gian nan cực khổ khi khai phá vùng đất này và việc đào kinh ; đồng thời cũng bày tỏ lòng tri ơn nhà vua đã ban tên phu nhân Châu Thị Tế cho con kinh mới đào là Vĩnh Tế Hà  và núi Sam là Vĩnh Tế Sơn. Chữ Vĩnh Tế được ghép từ tên của dòng họ Châu Vĩnh tại cù lao Dài ( nay thuộc huyện Vũng Liêm , tỉnh Vĩnh Long) và tên Châu Thị Tế.
Mặc dầu ông không trực tiếp đứng ra soạn văn bia này bởi vì người soạn bài văn là Võ Tam Hà vốn là một cựu thần của nhà Lê đi theo ông với vai trò của một thư lại.  Ngoài ra còn có  người hỗ trợ cho việc soạn văn bia là Tô Giang Nguyễn Chung Phủ. Tuy nhiên ông đứng vai trò giám sát và hiệu chỉnh lại việc soạn văn bia.
Chất liệu của bia Vĩnh Tế Sơn được cho rằng lấy từ đá hoa tại vùng núi phía Tây nước Chân Lạp. Các nghệ nhân khắc bia được rước từ vùng Ngũ Hành Sơn là quê hương của ông . Vì vậy trên bia này thể hiện từng đường nét chạm trổ hoa văn rất khéo léo. Bia có bề ngang khoảng 0,96m , chiều dài là 1,65m chưa kể phần chân bia chôn dưới đất, dầy khoảng 0,2m, được chạm theo kiểu tam cấp với ba bậc lồng khung vào nhau. Trên đầu bia ở bậc thứ nhất là hình “Lưỡng long tranh châu” uốn lượn trong đám mây, còn xung quanh là hình hoa lá. Bậc thứ hai là dòng chữ “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bi ký” khắc nổi, được bố trí theo hàng ngang từ phải sang trái. Xuống thêm một bậc nữa mới đến bài văn bia được sắp xếp theo hàng dọc với độ dài ngắn khác nhau. Việc trình bày văn bia này tuân thủ theo qui định của triều Nguyễn là những chữ quan trọng và có dính đến vua chúa như chữ Hoàng (), chữ Thánh (), chữ Ngọc ()… phải được mang lên đầu cột.  Những chữ này được gọi là chữ “ Đài”.

H02. Bia Vĩnh Tế Sơn nằm ở mặt sau vách trước lăng.

Những năm 60 của thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu trong công trình nghiên cứu về Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá vùng đất Hậu Giang đã tìm đến sơn lăng Thoại Ngọc Hầu dưới chân núi Sam để chụp hình và ghi lại những chữ trên văn bia Vĩnh Tế Sơn, nhưng những nét chữ trên bia đã mờ không còn đọc được. Nguyên nhân do cấu tạo của bia bằng đá mềm để dễ chạm khắc chứ không cứng như bia Thoại Sơn làm từ đá hoa cương tại núi Sập (Thoại Sơn). Qua một thời gian dài  không ai quan tâm, bị vùi dập dưới đất nên bia bị nước mưa xâm thực nặng. Nền bia bị loang lỗ, nét chữ bị mờ chỉ còn đọc được một số chữ .
Không nãn lòng, ông tìm trong các thư viện trong và ngoài nước nhưng vẫn không tìm ra văn bản này. Cuối cùng, nhờ cơ duyên nên ông tìm được văn bản chép tay bài văn bia Vĩnh Tế Sơn  tại nhà Tú Tài Trần Hữu Thường ở Tân Châu ( nay là xã Thường Phước thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp).
Khi nghiên cứu những công trình của Thoại Ngọc Hầu, tôi đã đến sơn lăng chụp lại những dòng chữ trên bia Vĩnh Tế Sơn và hiệu chỉnh lại một vài số liệu mà trước đây nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu vẫn còn để ngỏ do hạn chế về thiết bị và phương thức tiếp cận tư liệu ở giai đoạn đó so với ngày nay. Đây cũng là để tiếp tục hoàn thành công trình của người thầy đã từng dạy Việt Văn cho tôi dưới mái trường Thủ Khoa Nghĩa cách nay gần 50 năm. Ngoài ra tôi đã được tiếp cận ấn bản của hội Nghiên cứu Đông Dương xuất bản từ năm 1902 đến năm 1906 tại thư viện của viện Bảo Tàng Lịch Sử TP HCM mà ngày xưa là trụ sở của hội Nghiên Cứu Đông Dương, trong đó có bản chép và phiên âm bằng chữ Hán cùng với bản dịch bằng tiếng Pháp bia văn Vĩnh tế Sơn và Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương do ông Trần văn Hanh dịch vào năm 1905. May mắn tiếp theo là trong lúc hiệu đính tôi đã được bạn bè tìm giúp  một bản chữ Hán của ông Cao Khắc Kiệm đăng trên tạp chí Nam Phong số 47 năm 1921. Nhờ so sánh các bản dịch cùng với việc khảo sát những chữ còn sót lại trên bia tôi đã hiệu đính thành công bài văn bia Vĩnh Tế Sơn này.
Toàn bài bia văn Vĩnh Tế Sơn như sau :
奉 特 賜 名 永 濟 山 碑 記
坤 靈 秀 氣 凝 結 而 為 山 人 因 而 名 之 其 來 尚 矣
或 以 勝 槩 或 以 佳 跡 或 以 象 類 或 以 邑 里 亦 以 昔 人 所 登 臨 遊 玩 而 名 之 亦 以 髙 士 所 棲 遲 隱 逸 而 名 之 大 抵 俗 傳 韻 語 習 而 稱 呼 耳
其 獲 登 瑤 版 經 睿 鑒 造 嘉 名 以 旌 殊 貺 者 鮮 矣 而 況 遠 界 番 陬 深 居 荒 服 者 乎
朱 篤 地 界 古 蠻 番 區 也 皇 朝 開 拓 南 服 其 地 方 入 版 圖 嚴 設 屯 營 以 控 番 國 屯 之 後 有 山 焉 曰 杉 山 俗 名 也 林 薮 荒 邈 猶 為 土 人 客 獠 之 居 雖 有 奇 景 佳 跡 亦 一 幽 巖 亂 石 之 堆 阜 爾 意 者 造 物 有 待 而 後 使 之 呈 奇 獻 異 歟
欽 奉 聖 上 經 理 封 疆 嚴 設 屯 守 臣 瑞 玉 侯 本 領 保 護 藩 邦 兼 按 守 朱 篤 屯 經 奉 玉 諭
文 軌 混 同 關 城 晏 閉 欲 使 莽 蒼 皆 成 閭 閻 氓 隷 悉 為 編 户 桑 蔴 翳 野 煙 火 相 望 與 寓 縣 並 躋 富 殷 之 盛 仰 庙
臣 受 命    鳩 民 以 立 邑 乃 相 本 地  路 橫 達 雙 雙 長 江 路 上 至 滀 榮 路 上 至 爐 嶇 隨 便 歸 為 村 落 開 墾 田 園 雖 未 足 以 副 萬 分 之 而 以 今 視 昔 則 殊 異 矣
艾 蓬 翦 棘 之 後 白 分 石 腳 綠 孑 竹 捎 此 山 遂 出 色 焉 盤 然 特 峙 闞 清 流 而 按 峻 岸 林 圃 遶 其 麓 嵐 捲 炊 煙 寺 庙 倚 其 嶺 香 飄 雲 盎 庶 幾 中 州 風 景 矣
奉 畫 圖 馳 進 仰 蒙 睿 照 以 昔 年 臣 奉 董 役 浚 東 川 港 道 既 以 臣 爵 名 表 港 傍 之 柆 山 曰 瑞 山 至 是 又 軫 及 臣 心 能 乘 關 雎 之 化 以 齊 其 家 而 臣 妻 朱 氏 名 濟 能 化 周 南 之 德 以 內 勗 其 夫 靡 盬 之 忱 有 少 助 焉 遂 以 人 名 賜 山 名 為 永 濟 山
人 以 山 標 名 而 釵 髻 增 光 皇 澤 之 膏 沐 也 山 以 人 得 號 而 草 花 生 色 皇 霑 之 滋 潤 也
臣 眼 腦 眺 舒 心 官 默 識 眞 山 運 遭 逢 之 嘉 會 而 老 臣 際 遇 之 緣 不 然 何 以 膺 此 寵 靈 也
寡 完 因 解 旇 徂 化 大 之 遺 得 就 此 山 以 阡 焉
地 名 其 姓 山 名 其 人 寄 而 表 焉 歸 而 藏 焉 頓 覺 三 生 之 夙 契 寔 賴 鴻 造 之 有 成 豈 尋 常 之 榮 異 者 哉
至 乃 晨 光 散 霚 夕 照 飛 霞 木 笨 𥳰 以 垂 清 草 芊 眠 而 鋪 翠 塵 清 驛 路 凭 磴 遙 瞻 練 静 江 流 停 橈 閒 玩 指 點 相 謂 曰 此 特 攽 賜 名 永 濟 山 也
然 則 山 以 人 傳 歟 人 以 山 傳 歟 曰 是 皇 家 高 厚 之 恩 悠 久 無 疆 也 臣 謹 記
明 命 玖 年 歲 在 戊 子 著 雍 困 敦 秋 分 之 候
欽 差 統 制 按 守 朱 篤 屯 領 保 護 高 綿 國 印 兼 管 河 僊 鎭 邊 務 加 貳 級 紀 录 四 次 瑞 玉 侯 制
右 舊 黎 朝 中 試 三 河 武 視 承 撰
右 舊 黎 朝 員 子 蘇 江 阮 鐘 甫 承 寫
Bản phiên âm :
PHỤNG ĐẶC TỨ DANH VĨNH TẾ SƠN BI KÝ
Khôn linh tú khí, ngưng kiết nhi vi sơn, nhơn nhân nhi danh chi, kỳ lai thượng hĩ. Hoặc dĩ thắng khái, hoặc dĩ giai tích, hoặc dĩ tượng loại, hoặc dĩ ấp lý, diệc dĩ tích nhơn sở đăng lâm du ngoạn nhi danh chi, diệc dĩ cao sĩ sở thê trì ẩn dật nhi danh chi, đại để tục truyền vận ngữ, tập nhi xưng hô nhĩ. Kì hoạch đăng diêu bản, kinh duệ giám, tạo gia danh dĩ sanh thù huống giả tiển hĩ, nhi huống viễn giới phiên tưu, thâm cư hoang phục giả hồ ?
Châu Đốc địa giới cổ man phiên khu dã.
Hoàng triều khai thác Nam phục, kỳ địa phương nhập bản đồ; kinh thiết đồn doanh, dĩ khống phiên quốc. Đồn chi hậu hữu sơn yên viết Sam sơn, tục danh dã. Lâm tẩu hoang mạc, du vi thổ nhân khách liêu (2) chi cư. Tuy hữu kỳ cảnh giai tích, diệc nhứt u nham loạn thạch chi đôi phụ nhĩ. Ý giả tạo vật hữu đãi nhi hậu sử chi trình kỳ hiến dị dư ?
Khâm phụng Thánh thượng kinh lí phong cương, nghiêm thiết đồn thủ. Thần Thoại Ngọc Hầu bổn lãnh bảo hộ phiên bang, kiêm án thủ Châu Đốc đồn, kinh phụng ngọc dụ.
Văn quỹ hỗn đồng, quan thành án bế, dục sử mãng thương giai thành lư diêm, manh lệ tất vi biên hộ, tang ma ế dã, yên hỏa tương vọng, dữ ngụ huyện tịnh tê phú ân chi thạnh.
Thần thọ mạng kì cần, cưu dân dĩ lập ấp, nãi tương bổn giới địa thế (3) : nhứt lộ hoành đạt song song trường giang (4), nhứt lộ thượng chí Sốc Vang (5), nhứt lộ thượng chí Lò Gò (6), tùy tiện qui vi thôn lạc, khai khẩn điền viên. Tuy vị túc dĩ phó vạn phần chi nhứt, nhi dĩ kim thị tích tắc thù dị hĩ.
Ngải bồng tiễn cức chi hậu, bạch phân thạch cước, lục kiết trúc sao, thử sơn toại xuất sắc yên, bàn nhiên đặc trĩ. Hám thanh lưu nhi chẩm tuấn ngạn, lâm phố nhiễu kỳ lộc, lam quyện xuy yên, tự miếu ỷ kỳ điên, hương phiêu vân cái, thứ cơ trung châu phong cảnh hĩ.
Phụng họa đồ trì tiến, ngưỡng mông duệ chiếu; dĩ tích niên thần phụng đổng dịch tuấn Đông Xuyên cảng đạo, kí dĩ thần tước danh biểu cảng bàng chi Sập sơn viết “Thoại Sơn”. Chí thị hựu chẩn cập thần tâm, năng thừa Quan Thơ (7) chi hóa, dĩ tề kỳ gia, nhi thần thê Châu Thị danh Tế năng hóa Châu Nam (8) chi đức dĩ nội trợ kỳ phu, mi giám chi thầm hữu thiểu trợ yên. Toại dĩ nhơn danh tứ sơn danh, vi “Vĩnh Tế Sơn”. Nhân dĩ sơn phiêu danh nhi thoa kế tăng quang,
Hoàng trạch chi cao mộc dã, sơn dĩ nhân đắc hiệu nhi thảo hoa sanh sắc,
Hoàng triêm chi tư nhuận dã.
Thần nhãn não diêu thư, tâm quan mặc chí. Chân sơn vận tao phùng chi gia hội, nhi lão thần tế ngộ chi kỳ duyên. Bất nhiên, hà dĩ ưng thử sủng linh dã?
Đãi nữ quả hoàn nhân, giải phi tồ hóa dĩ tứ đại chi di, đắc tựu thử sơn dĩ tự thiên yên. Địa danh kì tánh, sơn danh kì nhơn, ký nhi biểu yên, quy nhi tàng yên, đốn giác tam sanh chi túc khế, thiệt lại hồng tạo chi hữu thành, khởi tầm thường chi vinh dị giả tai !
Chí nãi thần quang tán vụ, tịch chiếu phi hà, mộc bổn đính dĩ thùy thanh, thảo thiên miên nhi phô thúy, trần thanh dịch lộ, bằng đặng diêu chiêm, luyện tịnh giang lưu, đình nhiêu nhàn ngoạn, chỉ điểm tương vị viết: “Thử đặc ban tứ danh Vĩnh Tế Sơn dã!”
Nhiên tắc sơn dĩ nhân truyền dư ? Nhân dĩ sơn truyền dư ? Viết thị Hoàng gia cao hậu chi ân, du cửu vô cương dã. Thần cẩn ký.
Minh Mạng cửu (9) niên, Tuế tại trứ ung khổn đôn, thu phân chi hậu (10).
Khâm sai Thống chế, Án thủ Châu Đốc đồn, lãnh Bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, gia nhị cấp kỷ lục tứ thứ (11), Thoại Ngọc Hầu chế.
Hữu (12), cựu Lê triều trúng thí, Tam Hà Võ thị thừa soạn.
Hữu, cựu Lê triều viên tử, Tô Giang Nguyễn Chung Phủ thừa tả.
Bản dịch nghĩa :
Bài văn bia phụng soạn nhân dịp vua đặc biệt ban tên núi Vĩnh Tế
Đất thiêng khí lành, ngưng kết mà thành núi, người nhân đó mà đặt ra tên, ấy là việc đã có từ xa xưa.  Hoặc do cảnh đẹp, hoặc vì tích hay, hoặc tựa hình dáng, hoặc theo thôn ấp, cũng có khi do người xưa lên đây du ngoạn mà đặt tên, hoặc vì các bậc cao nhân dật sĩ đến nghỉ ngơi ẩn cư mà tên lại có, đại để đều do tục truyền lời xưa đã quen mà gọi vậy.
Khi dâng lên bản ngọc, vua sáng suốt minh xét đặt danh thơm mà biểu dương lưu lại, việc này ít có vậy.  Huống chi là chốn xa xôi, ở tận cùng phiên dậu, nơi thâm sâu hoang dã, thì việc này càng ít có lắm thay !
Đất Châu Đốc xưa kia thuộc khu vực Phiên Man (Cao Miên) vậy.  Triều đình mở mang thâu phục cõi Nam, cho đất nhập vào bản đồ, nghiêm đặt đồn doanh để khống chế nước Phiên.  Phía sau đồn có núi, tục gọi núi Sam vậy. Rừng rậm chằm ao hoang vắng xa xôi, còn là chốn ngụ cư của người Thổ và người Khách Liêu (Côn Man).  Tuy có cảnh đẹp tích hay, chẳng qua là một hang tối sâu, đá loạn, gò thấp mà thôi.  Ý chừng Trời cao đãi ngộ để sau này dùng đến, mà sắp bày cảnh lạ đẹp đến vậy chăng ?
Phụng mệnh Thánh Thượng kinh lý bờ cõi, sửa sang đồn thủ, thần Thoại Ngọc Hầu vốn lãnh chức Bảo Hộ nước Phiên (Cao Miên) kiêm Án Thủ đồn Châu Đốc, xin vâng theo lời chỉ dụ vàng ngọc của vua :
" Nền văn hiến chung đồng làm một, nơi cửa thành đóng kín an vui, những mong nơi cỏ hoang bát ngát đều trở thành làng mạc, để người dân lưu tán có sổ kê biên, dâu gai đầy đồng, khói bếp tỏa khắp, người dân chung sống trong huyện được hưởng ấm no thịnh vượng".
Thần thụ mệnh siêng năng kính cẩn, nhóm dân lập ấp ; tùy xem địa thế : một đường ngang song song với Trường Giang (sông Lớn), một đường thẳng đến Sốc Vang, một đường thẳng đến Lò Gò, tùy theo sự thuận tiện mà hợp thành thôn làng, khai khẩn ruộng vườn.  Tuy việc được giao phó trong muôn phần chưa thỏa mãn được một, nhưng so với lúc xưa, thật là khác nhau lắm vậy.
Từ sau khi dọn cỏ phát gai, chân núi hiện rõ trắng phau, ngọn tre một màu xanh ngắt, núi này trông đẹp đẽ hẳn lên vậy, núi quả nhiên sừng sững khác hẳn.  Ngắm dòng nước biếc mà vỗ bờ cao, ruộng vườn dọc quanh chân núi, khí sơn lam quyện chung khói bếp, chùa miếu hòa vào đèo núi, hương tỏa mây lồng, thật không kém gì cảnh đẹp nơi đô thành vậy.
Phụng mệnh vội vã dâng lên bức họa đồ, ngưỡng mong Thánh Thượng soi xét.  Do năm xưa thần phụng mệnh coi sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vì vậy mà tước danh thần được mang tên là tên sông Thoại (Thoại Hà), bên cạnh việc núi Sập được đổi tên thành núi Thoại (Thoại Sơn).  Đến nay lại vì nỗi xót xa trong lòng của thần , tiếp thừa đạo nghĩa vợ chồng Quan Thư mà lo việc nhà ổn thỏa, rồi vợ thần là Châu Thị Tế đã có được đức hạnh Châu Nam mà lo việc nội trợ cho chồng, có chút nhiệt tâm hỗ trợ việc công vậy, nên lấy tên người ban cho tên núi là núi Vĩnh Tế (Vĩnh Tế Sơn).
Người nhờ núi nêu tên mà trâm tóc vẻ vang, ơn vua gội thấm vậy; núi nhờ người được danh hiệu mà cỏ hoa khoe sắc, ơn vua tưới nhuần thay.
Thần nhãn não mở mang, lòng thầm ghi nhớ, thật là vận núi gặp được hội tao phùng mà lão thần do kỳ duyên được tế ngộ.  Nếu không phải vậy, do đâu mà có được sự ân sủng thiêng liêng đến thế ?
Kịp khi vợ nhà đã về với núi, thoát bỏ trần duyên mà về với tứ đại, mong được yên nghỉ tại núi này lắm thay ! Đất đặt tên theo họ, núi đặt tên theo người.  Sống gởi mà hiển dương sao, thác về còn lưu dấu vậy !  Chợt ngộ rằng duyên nợ ba sinh thật nhờ ơn Trời mà được, há chẳng khác vinh hoa tầm thường lắm chăng ?
Lại khi ánh mai sương tản, bóng chiều ráng rọi, cây cối xù xì rậm rạp ửng một màu xanh,  ngọn cỏ như bừng tỉnh dậy khoe sắc thắm. Bụi lắng trên đường, dõi nhìn bậc thang trên núi xa xa, dòng sông như giải lụa yên tĩnh, lỏng buông tay chèo nhàn hạ thưởng ngoạn, trỏ nơi ấy mà bảo nhau rằng : " Đây, nơi vua đặc biệt ban tên là núi Vĩnh Tế vậy!"

Thế thì núi nhờ người mà được lưu truyền chăng ? Người nhờ núi mà được lưu truyền chăng?  Nghĩ rằng: do Vương triều ơn gội cao dày, sánh cùng trời đất lâu dài mà được vậy.  Thần kính cẩn ghi lại.
Năm Minh Mạng 9 (1828 nhằm năm Mậu Tý), can Trứ Ung chi Khốn Đôn, nhằm tiết Thu Phân.
Khâm Sai Thống Chế án thủ đồn Châu Đốc, lãnh Quốc Ấn Bảo hộ Cao Miên, kiêm quản việc biên giới thuộc trấn Hà Tiên, gia cấp bậc thứ hai, kỷ lục lần thứ tư, Thoại Ngọc Hầu tạo tác.
Phần trên do người đậu kỳ thi tuyển của triều Lê xưa, Tam Hà họ Võ vâng lệnh soạn thảo.
Phần trên do thư lại của triều Lê xưa, Tô Giang Nguyễn Chung Phủ vâng lệnh sao chép.


H03. Bia vĩnh Tế sơn với nội dung đã được phục chế.


H04. Hoa văn lưỡng long tranh châu trên bia.

Có một vài ý kiến cho rằng bia đã được khắc chữ lại vào đầu thập niên 1960 nhưng qua khảo sát không hề có một dấu vết chứng tỏ đã làm lại bởi vì trên nền bia bị xâm thực loang lổ không thể nào khắc lại chữ được.
Một vấn đề khá lý thú nữa, là bốn tấm bia bằng sa thạch màu đen được đặt kề bên bia Vĩnh tế Sơn gợi cho ta những giả thuyết sau :
Trong lúc đào kinh Vĩnh Tế và khai phá vùng Châu Đốc, Thoại Ngọc Hầu đã tìm thấy 4 tấm bia bằng sa thạch này. Những tấm bia này có nguồn gốc từ vương quốc  Phù Nam ( tồn tại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên). Trên các tấm bia này có ghi những dòng chữ Phạn cổ. Lúc đầu ông định sử dụng 4 tấm bia này để ghi bài văn Vĩnh Tế Sơn nên đã cho người mài nhẵn những chữ Phạn cổ trên tấm bia này. Công việc tưởng chừng thuận lợi rốt cuộc lại khó khăn. Do bia làm bằng sa thạch rất cứng nên việc khắc chữ trên bia mất nhiều thời gian mà không đem lại kết quả như ý muốn. Vì vậy ông phải bỏ cuộc và thay vào đó bằng đá hoa có nguồn gốc từ phía Tây của Chân Lạp mềm hơn để dễ dàng khắc những hoa văn lên trên đó. Dấu tích còn sót lại minh chứng cho điều này là chúng ta phát hiện có một vài chữ Hán ghi trên bia bằng sa thạch (ở tấm bia phía trái bia Vĩnh Tế Sơn ), còn tấm bia phía bên phải có những dòng chữ Phạn cổ còn sót lại trên nền bia chưa bị mài nhẵn. Chứng cứ này càng thêm xác định giả thuyết trên là đúng.
Nhờ vào bia Vĩnh Tế Sơn, người đời sau có thể tìm lại được công trình của ông Thoại Ngọc Hầu và những di tích liên quan đến Châu Đốc đã bị lãng quên. Thí dụ như trong câu : nhất lộ hoành đạt song song Trường Giang, nhất lộ thượng chí Sóc Vang, nhất lộ thượng chí Lò Gò” người ta mới biết ông đã làm con đường từ Long Xuyên đi Châu Đốc song song với sông Hậu. Con đường này được làm song song với việc đào kinh Vĩnh tế và tận dụng số lượng dân quân dư thừa trong mùa nước nổi không thể đào kinh được nên chuyển dang làm nhiệm vụ đắp đường. Con đường này chỉ cho xe ngựa và khách bộ hành đi lại dễ dàng bởi vì trước đó chỉ là lối mòn do người dân đi lại mà thành, vào mùa nước nổi thì bị ngập không đi lại được. Nhờ con đường này mà đồn Châu Đốc có thể liên hệ với bảo Đông Xuyên. Mãi đến năm 1922 người Pháp mới mở rộng con đường này để cho ô tô đi lại dễ dàng.  Con đường từ Châu Đốc đến Nam Vang tức Phnom Penh ngày nay và con đường từ Châu Đốc đến Lò Gò tức Angkor Borey thủ đô của vương quốc cổ Phù Nam cũng được ông cho làm. Đây là con đường chiến lược bởi vì từ năm 1819 khi nhận chức bảo hộ Cao Miên lần thứ 3, ông không ở Nam Vang mà sống tại đồn Châu Đốc để trông coi việc đào kinh Vĩnh tế.Tin tức từ thành Nam Vang sáng sớm nếu phi ngựa đi trên con đường này thì đến chiều sẽ đến thành Châu Đốc. Đồn đóng tại vùng Angkor Borey có nhiệm vụ bảo vệ cho đồn Châu Đốc trước sự xâm lấn của quân Xiêm từ hướng tây. Đồn Châu Đốc ngày xưa đã được định vị trên bản đồ hiện nay, nó hình lục giác gồm 2 cạnh dài và 4 cạnh ngắn, được làm bằng đất có cạnh dài từ đông sang tây khoảng 640m( từ đường Nguyễn Đình Chiểu đến đường Louis Pasteur ). Chiều ngang của đồn khoảng 320 m ( từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Thủ Khoa Nghĩa). Cầu Kinh Giồng trên đường Louis Pasteur chính là điểm xuất phát của kinh Vĩnh tế bởi vì từ đó đến đầu vàm nơi có đình Vĩnh Nguơn chính là hào thành phía Tây của đồn Châu Đốc. Đồn có 3 cửa : cửa phía Đông là cửa chính, cửa phía Bắc là nơi quân đồn trú, cửa phía Tây là kho chứa quân lương.


H05. Vị trí đồn châu Đốc so với hiện nay.
Ngoài tên gọi là Vĩnh Tế Sơn, núi Sam còn được gọi là Học Lãnh sơn. Điều này thể hiện qua hai câu đối nơi chính điện miếu Bà Chúa Xứ núi Sam
鱟嶺威嚴同荷坤貞之採
朱江節映均蒙普度之恩
Dịch âm : Học Lãnh uy nghiêm, đồng hà khôn trinh chi thải,
              Châu Giang tiết ánh, quân mông phổ độ chi ân.
Tên gọi này xuất hiện trước khi tên Vĩnh Tế được ban cho núi Sam.
Để bảo tồn bia Vĩnh Tế Sơn không bị hư hại theo thời gian do để ngoài trời chịu nhiều mưa nắng, UBBND thành phố Châu Đốc cùng với hội KHLS An Giang đã tiến hành hiệu đính và phục dựng laị bia Vĩnh tế Sơn cùng với bia Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương. Đến nay thì công việc hiệu đính đã xong còn phần thiết kế lại bia thì đang tiến hành.
Bia phục chế  này sẽ làm hai mặt : một mặt chữ Hán sẽ được trình bày theo lối văn bia cổ, mặt kia sẽ làm bằng chữ Việt để cho mọi người có thể đọc được. Tuy nhiên việc thực hiện những hoa văn trên mặt bia bằng phương pháp thủ công là chuyện không tưởng, bởi vì những hoa văn khắc trên bia rất phức tạp và tinh xảo, cần người thợ có tay nghề cao và mất nhiều thời gian , công sức. Tuy nhiên, vấn đề này có thể khắc phục bằng cách sử dụng máy khắc đá kỹ thuật số, một thành tựu trong việc tự động hóa ngành điêu khắc hiện nay. Bia sẽ được máy móc chuyên dùng ghi và dựng lại theo công nghệ 3D, khắc phục những khiếm khuyết rồi mới được đưa đến máy để thực hiện công đoạn chạm khắc. Nếu sử dụng công nghệ này thì thời gian chạm khắc sẽ được rút ngắn và những hoa văn sẽ được thực hiện chính xác theo đúng nguyên bản. Vấn đề còn lại là các văn tự Hán Nôm phải được thẩm định nghiêm ngặt, tránh sai sót trong quá trình chế tác.
Bảo tồn và tôn tạo những di tích như lăng, bia cổ là việc làm cần thiết bởi vì nó ghi lại được sự gian khổ, hy sinh của các bậc tiền nhân đã khai phá và giữ gìn từng tấc đất của quê hương. Đây là một bài học thực tế nhất để con cháu đời sau không quên cội nguồn của mình và để môn lịch sử không bị lãng quên theo thời gian. Đó cũng là niềm tin để thế hệ sau này hướng tới tương lai trong niềm tự hào của dân tộc chứ không lệ thuộc ngoại bang.
LÂM THANH QUANG.
Chú thích :
(1) Bia này đang được phục chế cùng với bia Vĩnh tế Sơn.
 (2) Chữ客獠 trong bản Hán văn đọc là khách liêu chỉ dân tộc thiểu số còn lạc hậu từ nơi khác đến . Ở đây Thoại Ngọc Hầu ám chỉ người Chăm sống ở An Giang có nguồn gốc từ miền Trung Việt Nam bị chúa Nguyễn đánh đuổi chạy sang Chân Lạp. Do đụng chạm với người Chân Lạp nên họ bị đàn áp dã man. Sau đó họ theo Nguyễn Cư Trinh về định cư tại An Giang. Người Lào chưa từng sống ở vùng An Giang. Thoại Ngọc Hầu đã từng đi sứ sang Lào ( còn gọi là Lão Qua) nên rất rõ điều này.
 (3) Chữ thế trong văn bia là chữ nôm   chứ không phải chữ như trong sách đã ghi. Chữ nôm  này ngày nay ít được dùng.
(4) Con đường này không được nhắc đến trong công trình của Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An Giang bởi vì người ta gộp chung nó với công trình đào kinh Vĩnh tế.
(5) Sốc Vang : là Nam Vang tức Phnom Penh thủ đô của Vương quốc Campuchia hiện nay.
(6) Lò Gò : là Angkor Borey, thủ đô của Vương Quốc Phù Nam cỗ tồn tại từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ thứ 7. Người Việt còn gọi là Ba Nam.
(7) Điển tích Quan Thư lấy từ 4 câu thơ trong kinh thi :
Dịch âm :
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.

Dịch nghĩa

Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan,
Ở trên cồn bên sông.
Người thục nữ u nhàn,
Phải là lứa tốt của bực quân tử (vua). ( nguồn thivien.net)
(8) Điển tích Châu Nam là những bài thơ của nước Châu Nam trong kinh Thi có 11 thiên, cả thẩy 34 chương, 159 câu.
Theo phần thơ Châu nam này, 5 bài thơ đầu đều nói về đức hạnh của bà Hậu phi.
Những bài thơ này được truyền tụng trong dân gian nói về đức hạnh của người phụ nữ lo việc nội trợ giúp chồng.
(9). Chữ cửu (玖) trên bia là ch là chữ cửu kép. Theo Khâm định Đại Nam Hội điển Sử lệ thì bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ tư, những chữ ghi niên hiệu của nhà vua và những chữ số quan trọng trong các văn bản phải dùng chữ số kép để tránh bị sửa chữa làm sai lệch nguyên gốc.
(10) Trong bản của ông Trần văn Hanh viết thiếu chữ phân trong cụm từ “Thu phân chi hậu” . Qua việc khảo sát văn bia thì trên bia viết rõ ràng là “ Thu phân chi hậu”.
Chữ hậu trên bia là chữ nghĩa là khí hậu chứ không phải là chữ có nghĩa là sau như trong bản của ông Trần văn Hanh. Ông Nguyễn văn Hầu đã viết đúng khi dùng chữ nghĩa là khí hậu này.
(11) Khi vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820 đã có qui định về mức tặng thưởng. Lúc đầu chỉ có 3 bậc kỷ lục, sau thêm 2 bậc nữa thành ra 5 bậc. Đó là: Ân thưởng, Nghị tự, Tùy đới, Quân công, Trác dị.
Ba bậc đầu là cấp kỷ tầm thường. Hai bậc sau là cấp kỷ đặc biệt. Một bậc đặc biệt có giá trị bằng 2 bậc tầm thường. Mỗi cấp kỷ lại được thưởng 4 lần, gọi là “tứ thứ” .v.v…( Tự Điển nhà Nguyễn của NNC Võ Hương An  xuất bản năm 2012 tại Mỹ ). Trong lúc đào kinh Thoại Hà, ông đã được tặng thưởng ở bậc thứ nhất kỷ lục lần thứ nhất rồi, lần này ông được thưởng kỷ lục lần thứ tư là bậc tột cùng của bậc tặng thưởng thứ hai.
(12) Trong bản của ông NVH do chép sau nên không có chữ như bản của ông Trn văn Hanh. Vì vậy ông chỉ dịch theo nguyên văn chữ Hán là “Cựu thần Lê Triều trúng thí Tam Hà Võ Thị thừa soạn”.  Trong bản dịch của LTQ , tác giả đã dịch đúng theo bản của ông Trần văn Hanh là “ Phần trên do người đậu kỳ thi tuyển của Triều Lê xưa,  Tam Hà họ Võ soạn ra”. Kỳ thi tuyển ở đây không có nghĩa là kỳ thi Hương hay thi Hội do triều đình tổ chức mà là kỳ thi tuyển vào ngạch thư lại do địa phương tổ chức để lấy người vào giúp việc cho các quan chức tại địa phương.
Tô Giang Nguyễn Chung Phủ là thư lại của Triều Lê xưa nhưng không rõ đã qua kỳ thi tuyển chưa không thấy ghi ra đây. Tuy nhiên người này cũng là một người giỏi văn chương nên mới được phân công vào việc viết văn bia bởi vì chữ ghi trên văn bia nếu sai một nét cũng sẽ làm hỏng cả bài văn.

Tài liệu tham khảo :
1.Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang nhà xuất bản Hương Sen năm 1972 và nhà xuất bản Trẻ năm 2006.
2. Ấn phẩm của Viện Nghiên cứu Đông Dương ( Publication de la Société des Études Indo-Chinoises ) bản chữ Hán do ông Trần văn Hanh dịch và chữ Pháp với tựa đề Inscription de la  Montagne de Vinh-Te in tại Sài Gòn năm 1905.
3. Bản chữ Hán của ông Cao Khắc Kiệm đăng trên Tạp chí Nam Phong số 47 năm 1921.
4. Bia Vĩnh tế Sơn nơi Sơn Lăng Thoại Ngọc Hầu, P Núi Sam, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang.

















Thứ Ba, 8 tháng 5, 2018

Chế độ tuyển chọn quan chức của triều đình nhà Nguyễn qua hai sắc chỉ cấp cho Lê văn Sanh.




Chế độ tuyển chọn quan chức của triều đình nhà Nguyễn
qua hai sắc chỉ cấp cho Lê văn Sanh.


H01 : Lễ giỗ Lê văn Sanh tại Vệ Thủy miếu phường Vĩnh Mỹ, TP Châu Đốc.
Lê văn Sanh nguyên quán tại chợ Tham  Buôn thuộc xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Gia đình của ông gốc từ miền Trung vào đây lập nghiệp khi vùng đất  Châu Đốc Tân Cương vừa mới được hình thành. Từ bến đò Rạch Gộc ta có thể đi đò ngang băng qua dòng sông Hậu sẽ gặp chợ Tham Buôn nằm kế bên sông.


                              H02 : Hộp chứa sắc chỉ.

Tiếp chúng tôi tại ngôi nhà thờ Phó Vệ Thủy Lê văn Sanh là ông Lê văn Khanh là cháu 6 đời của ngài Phó Vệ Thủy. Bên trong ngôi nhà có treo những tấm hoành phi và những câu đối được cẩn xà cừ trên nền gỗ quí. Đặc biệt là nơi đây còn lưu giữ bản sắc chỉ từ đời vua Thiệu Trị và Tự Đức được đặt bên trong một hộp bằng gỗ quí. Ông Khanh hướng dẫn chúng tôi đến thăm ngôi mộ của ngài Phó Vệ Thủy nằm giữa cánh đồng Tham Buôn. Ngày xưa khi ông mất, ngôi mộ của ông chỉ là ngôi mộ đất đơn sơ không có mộ bia để tránh sự dòm ngó của chính quyền Pháp thời đó. Mãi đến năm 1956 mới đem về cải táng tại gò đất của gia đình cách đó không xa. Những năm gần đây gia đình mới xây lại ngôi mộ bằng xi măng và gắn mộ bia để con cháu đời sau biết được lai lịch và công đức của ông.
Các đạo sắc chỉ cấp cho Lê văn Sanh trước đây được lưu giữ tại ngôi nhà thờ này. Khi miếu Vệ Thủy tại Vĩnh Mỹ được thành lập vào năm 1953, thể theo nguyên vọng của Ban Quí Tế tại Châu Đốc, gia đình mới bàn giao 2 sắc chỉ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) và Tự Đức thứ 9 (1856) cho miếu Vệ Thủy tại Châu Đốc để thờ phụng. Gia đình chỉ giữ lại 2 tờ sắc chỉ vào năm Thiệu Trị thứ 6 và Tự Đức thứ 16 (1863) mà thôi. Tại nhà ông Lê văn Sức là chú Út của ông Lê văn Khanh, chúng tôi còn tiếp cận được sơ đồ gia phả của ông Lê văn Sanh. Ông là người con thứ tư của ông Lê văn Truyền ( Theo cách gọi của người miền Nam là thứ năm nên còn được gọi là ông Năm Sanh).

Khi nghiên cứu về ngài Phó vệ Thủy Lê văn Sanh hiện được thờ tại Vệ Thủy Miếu phường Vĩnh Mỹ, TP Châu Đốc, chúng tôi may mắn được tiếp cận với 2 đạo sắc chỉ của vua Thiệu Trị và Tự Đức cấp cho ông hiện được lưu giữ tại nhà của ông Lê Công Hội là người đã có công xây dựng lại ngôi miếu này vào năm 1953. Ông Lê Công Hội hiện nay đã mất, chỉ còn hai người con là ông Lê Công Thưởng và Lê Công Tuyết giữ nhiệm vụ bảo quản 2 đạo sắc chỉ này. Qua đó chúng tôi có dịp biết thêm về thân thế và sự nghiệp của ông Lê văn Sanh và chế độ tuyển chọn quan chức của Triều đình nhà Nguyễn thể hiện trong 2 sắc chỉ này.
Sắc chỉ đời Thiệu Trị cho Lê văn Sanh :
敕 安 江 右 奇 文 笙 貫 安 江 省 新 城 府 東 川 縣 安 傯 美 會 東 村 前 經 有 以 隊 長 用 該 省 員 聲 請 具 題 準 爾 補 授 伊 隊 隊 長 率 內 隊 兵 從 率 隊 員 差 派 公 務 若 所 事 弗 有 軍 政 在
欽 哉.
绍 治 肆 年 玖 月 貳 拾 貳 日
Dịch âm:
Sắc An Giang Hữu cơ, Bát độivăn Sanh quán An Giang tỉnh, Tân Thành phủ, Đông Xuyên huyện, An  Lương tổng , Mỹ Hội Đông thôn, tiền kinh hữu chỉ  dĩ  Đội trưởng dụng. cai tỉnh viên thanh  thỉnh cụ  đề chuẩn  nhĩ bổ thụ  y  đội  Đội trưởng suất Nội đội binh tòng suất đội viên sai phái công  vụ. Nhược sở sự phất kiền hữu quân chánh tại .
Khâm tai!
Thiệu Trị tứ niên , cửu ngoạt, nhị thập nhị nhật.
(Dấu ấn Sắc Mệnh Chi Bảo)
Dịch nghĩa:
Sắc cho Lê văn Sanh là Cai đội thuộc đội thứ Tám, cơ Hữu là người thôn Mỹ Hội Đông, tổng An Lương, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang trước đây đã có chỉ bổ làm đội trưởng.  nay Quan Cai Tỉnh nghe tiếng đề nghị chuẩn cho ngươi chính thức giữ chức vụ Đội Trưởng của đội ấy, làm Đội Trưởng suất đội Nội Binh. Theo đó cai quản các đội viên thi hành việc công. Nếu làm việc chẳng siêng năng thì đã có quân pháp ở đây.
Hãy cung kính tuân theo!
Ngày 22 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 4 (02.11.1844 DL).

(Dấu ấn Sắc Mệnh chi bảo)


H03 : Sắc chỉ đời Thiệu Trị.




H04 Bản hiệu đính và dịch sắc chỉ đời Thiệu Trị cho ông Lê văn Sanh.

Sắc chỉ đời Tự Đức cho Lê văn Sanh.
敕 安 江 右 隊 正 隊 率 隊 黎 文 笙 前 經 察 核 預 在 平 項 兵 部 彙 册 具 題 準 爾 陞 授 伊 隊 該 隊 率 内 隊 弁 兵 從 該 管 員 分 派 公 務 若 厥 職 弗 虔 有 軍 政 在
欽 哉.
嗣 德 玖 年 拾 貳 月 初 貳 日
Dịch âm:
Sắc An Giang Hữu cơ Bát đội Chánh  Đội Trưởng  Suất  Đội  Lê văn  Sanh tiền kinh  sát hạch  dự tại Bình hạng. Tư Binh Bộ vị sách cụ đề chuẩn nhĩ thăng thụ y đội, Cai Đội Suất Nội đội Biền binh, tòng  cai  quản viên phân phái  công  vụ.  Nhược quyết chức phất kiền hữu quân chánh  tại.
 Khâm tai!
Tự Đức cửu niên, thập nhị ngoạt,  sơ nhị nhật.
(Dấu ấn Sắc Mệnh Chi Bảo)
Dịch nghĩa:
Sắc cho Chánh đội trưởng  suất đội Lê văn Sanh thuộc đội thứ Tám, cơ Hữu tại An Giang. Trước đây đã tham dự kỳ thi sát hạch và đậu hạng Bình. Nay bộ Binh lập danh sách đề cử thăng cho ngươi chính thức giữ chức vụ Cai Đội Suất Nội đội Biền binh, theo đó mà cai quản đội viên thi hành  việc công. Nếu trong thời gian giữ chức mà chẳng siêng năng làm việc thì đã có quân pháp ở đây.
Hãy cung kính tuân theo!
Ngày mùng 2 tháng 12 năm Tự Đức thứ 9 (28.12.1856 DL).

(Dấu ấn Sắc Mệnh Chi Bảo)




H05. Sắc chỉ năm Tự Đức thứ 9 (1856)





H06. Bản hiệu đính và dịch sắc chỉ năm Tự Đức thứ 9 cho ông Lê văn Sanh.
Qua 2 tờ sắc chỉ này, chúng ta có dịp hiểu biết thêm về chế độ tuyển chọn quan chức dưới triều Nguyễn nhất là tuyển chọn các quan võ. Sau khi lên ngôi vào năm 1820, vua Minh Mạng rất tôn trọng việc chiêu hiền đãi sĩ cả văn lẫn võ. Năm 1835 , nhà vua cho xây dựng Võ miếu tại An Ninh Thượng, nay là thôn An Bình (phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế) sát bên cạnh Văn Thánh Miếu để thờ các bậc danh tướng triều Nguyễn lập nhiều chiến công.
Năm 1837, khoa thi Hương võ và Hội võ lần đầu tiên được mở. Theo đó, triều đình quy định lấy các năm Dần, Tỵ, Thân, Hợi mở khoa thi Hương võ, các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu mở khoa thi Hội võ.
Trong khoa thi Hương võ, triều đình quy định người nào ba kỳ đầu trúng là cử nhân võ, dự trúng 2 kỳ là tú tài võ. Đối với cử nhân võ thì ngày xướng danh, phúc hạch, hỏi về 3-4 câu ở sách Võ kinh, Tứ tử, ai thông suốt thì được xếp ở hạng đầu bảng. Các cuộc thi Hương võ thường được triều đình tổ chức tại các trường thi võ ở Huế, Bình Định, Hà Nội, Thanh Hóa.
Riêng bộ Binh, cứ vài năm lại tổ chức một kỳ thi sát hạch lại các võ quan từ đội trưởng đến Quản cơ. Ai trúng tuyển mới được đề cử giữ chức vụ cũ, ai thi rớt thì sẽ bị cách chức, hạ bậc và chuyển sang làm việc khác. Nhà vua sẽ cấp bằng cho những ai vượt qua kỳ thi sát hạch này. Chánh đội trưởng sẽ mang hàm từ Chánh thất phẩm đến Tòng lục phẩm.

Lê văn Sanh đã xuất sắc tham dự kỳ thi sát hạch do bộ Binh tổ chức dưới triều Tự Đức và đã đậu hạng Bình chứng tỏ ông là một người văn võ song toàn. Là người phụ tá đắc lực của Chánh Vệ Thủy Đỗ Đăng Tào. Hai ông đã cùng nhau dẹp giặc cướp , bảo vệ sông Châu Đốc. Khi quân Pháp đánh chiếm thành Châu Đốc, ông cùng Đỗ Đăng Tào phục kích tàu Pháp trên sông Châu Đốc ngay tại Mương Thủy nhưng không thành. Sau đó ông lui về quê nhà Tham Buôn và mất tại đó.


H07. Sơ đồ phả hệ gia đình ông Lê văn Sanh.

Ngoài ra trong buổi hội thảo chúng tôi may mắn được tiếp cận được ảnh chụp 2 sắc chỉ cấp cho ông Lê văn Sanh vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) và Tự Đức năm thứ 16 (1863) hiện đang được lưu giữ tại nhà ông Lê văn Khanh tại Tham Buôn. Hai sắc chỉ này đã bị mất một số chữ do thời gian. Tuy nhiên qua tổng hợp các sắc chỉ lại chúng tôi biết được là chức vụ sau cùng của ông Lê văn Sanh là Bang Biện Phó Quản Cơ nắm giữ cơ Nội Biền binh là người giữ gìn trật tự trên đường sông tại Châu Đốc. Như vậy truyền thuyết người dân gọi hai ông Đỗ Đăng Tào và Lê văn Sanh là Chánh Cơ và Phó Cơ là đúng sự thật. 


H08. Mộ ông Lê văn Sanh tại chợ Tham Buôn.
Các sắc chỉ trên được viết trên giấy dó đã gần 200 năm vốn là một di sản Hán Nôm quí giá mà chúng ta còn lưu giữ được để biết về chế độ tuyển chọn quan võ và cách sử dụng hiền tài dưới triều nhà Nguyễn. Hiện nay nó đã bị hư hỏng một phần và sẽ có nguy cơ bị hủy hoại theo thời gian mặc dầu người bảo quản đã cố gắng duy trì chế độ bảo quản thật tốt. Sắc được chứa trong một hộp bằng gỗ quí , trong hộp chứa nhiều hồ tiêu đã rang chín để tránh mối mọt và nấm mốc. Trước lễ giỗ của ông vài ngày, sắc được đem ra phơi để kiểm tra và tránh bị ẩm ướt. Việc phục chế các sắc chỉ này cũng là việc chúng ta quan tâm để giữ gìn di sản của tiền nhân, đồng thời biểu thị tấm lòng của người dân Châu Đốc đối với danh nhân được mọi người yêu mến này.
Lâm Thanh Quang.
Ghi chú :
Những chữ gạch dưới là những chữ bị bay mất nhưng được khôi phục  bằng cách tổng hợp nhiều tư liệu khác nhau.
Tài liệu tham khảo :
01.Sắc chỉ của Lê văn Sanh hiện được lưu trữ tại nhà của ông Lê Công Hội.
02 Ảnh chụp 2 sắc chỉ hiện được lưu trữ tại nhà ông Lê văn Khanh ở Tham Buôn.

02. Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ tập 2.
Ghi chú :
Những chữ gạch dưới là những chữ bị bay mất nhưng được khôi phục  bằng cách tổng hợp nhiều tư liệu khác nhau.
Tài liệu tham khảo :
01.Sắc chỉ của Lê văn Sanh hiện được lưu trữ tại nhà của ông Lê Công Hội.
02. Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ tập 2.







Những khám phá mới qua vi bằng bổ nhiệm Phó Suất Cơ Đỗ Đăng Tào





Những khám phá mới qua tờ vi bằng bổ nhiệm
Phó Suất Cơ Đỗ Đăng Tào

Đỗ Đăng Tào (杜登曹) nguyên quán tại Xẻo Bún  thuộc xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Xẻo Bún là tên một con rạch nằm giáp ranh giữa hai xã Mỹ Hội Đông và Kiến An thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Tổ tiên của ông từ miền Trung di dân vào đây kể từ khi Châu Đốc đạo do chúa Nguyễn thành lập vào năm 1757. Cha của ông là Đỗ Đăng Khoa nguyên là Khâm Sai Cai Cơ dưới triều vua Gia Long. Ông vốn là người giỏi võ nên khi đầu quân vào triều đình vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824) đã được bổ nhiệm làm Chánh đội trưởng đội thủy binh phụ trách tuần tiểu trên sông Châu Đốc và đánh dẹp giặc cướp tại vùng này. Khi người Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, tàu Pháp đi qua đây để đánh thành Châu Đốc, ông tổ chức phục kích bằng cách giăng dây xích ngang sông để cản đường tại Mương Thủy nhưng việc bất thành. Sau đó ông lui về quê nhà mai danh ẩn tích và mất tại đó. 

H01 Vệ Thủy miếu phường Vĩnh Mỹ mặt trước hướng ra sông Châu Đốc.
Trong hành trình tìm hiểu về nhân vật lịch sử này hiện được thờ tại 2 Vệ Thủy Thần miếu ( một ở phường Vĩnh Mỹ, TP Châu Đốc và 1 tại quê hương của ông tại Mỹ Hội Đông);  chúng tôi được may mắn tiếp cận tờ vi bằng cấp cho ông giữ chức Phó Suất Cơ đội thủy binh tại  ngôi miếu Vệ Thủy ở Xẻo Bún, Mỹ Hội Đông. Cảm thông được sự gian nan của chúng tôi lặn lội đường xa đến đây, ông Lý Xuân Lịch, hậu duệ đời thứ 6 của ông Đỗ Đăng Tào đã bằng lòng mở bản gốc tờ vi bằng được lưu giữ tại đây để chúng tôi tham khảo. Rất tiếc là tờ vi bằng này do thời gian quá lâu ( trên 180 năm) nên đã bị hư hỏng nhiều, những người bảo quản lại dán giấy xung quanh bìa nên một số chữ ở dòng phía trên và dòng phía dưới cùng bị che lấp không đọc được. Ngoài ra một số chữ bên trong tờ vi bằng cũng bị bay mất. Tuy nhiên với những tài liệu tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi đã phục hồi được hầu hết những từ bị che mất và thiếu. Qua đó có thể giải mã được những vấn đề quan trọng về tên họ, chức vụ của ông cũng như những nhân vật có liên quan.

H02 Cổng tam quan hướng ra sông Châu Đốc.
Nguyên văn tvi bằng như sau :
討 逆 左 將 軍 永 順 侯 参 贊 大 臣 黎      爲 憑 給 事
安    平 奇 参 隊 正 隊 率 隊 仍 帯 承 恩 尉 革 留 杜 登 曹 前 因 南 圻 有 警 乃 能 勇 久 從 征                                                                                                                                         須 至 給 者
右 憑
  副 率 奇 杜 登 曹 據 此
明 命 拾 五 年 貳 月 貳 拾 捌 日.
Dịch âm :
Thảo Nghịch Tả Tướng  Quân Vĩnh Thuận Hầu, Tham Tán Đại Thần Lê   vi bằng cấp sự tư.
An Giang  An Bình cơ Tam đội Chánh Đội Trưởng Suất Đội nhưng đới thừa ân úy cách chức lưu Đỗ Đăng Tào. Tiền nhân Nam Kỳ hữu cảnh nãi năng củ tập hương dõng cửu tòng chinh tiễu. Kinh Lãnh Binh Lê Đại Cương bảo thỉnh vi quyền trí An Nghĩa cơ Ngoại Ủy Phó Suất Cơ, ứng cấp đội. Hợp hành quyền cấp văn bằng vi Ngoại Ủy Phó  Suất Cơ, hiệp dữ suất cơ viên, xướng suất đội dõng lệ. Tòng cai quản viên phân phái nhung vụ . Giá quan nhung chính yếu nghi huấn tề sĩ ngũ. Phấn phát phất cần hữu dư quân hiến tu chí cấp giả. (dấu ấn Tả Tướng Quân) 
Hữu bằng cấp.
Ngoại Ủy Phó suất cơ Đỗ Đăng Tào cứ thử. (dấu ấn Tả Tướng Quân) 
Minh Mạng thập ngũ niên, nhị ngoạt, nhị thập bát nhật.
Dịch nghĩa :
Nay Thảo Nghịch Tả Tướng Quân tước Vĩnh Thuận Hầu(1) , Tham Tán Đại Thần họ Lê (2) cấp bằng này.
 Đỗ Đăng Tào là Chánh Đội Trưởng suất đội thứ Ba thuộc cơ An Bình, tỉnh An Giang. Do trước đây Nam Kỳ có biến nên đã bị cách chức nhưng được ban ân lưu dụng lại; đã có công tập hợp những trai tráng trong làng dẹp giặc. Qua đó, Lãnh Binh Lê Đại Cương đề cử tạm giữ chức vụ Phó Suất Cơ An Nghĩa gọi là Ngoại Ủy  Phó Suất Cơ, tiếp nhận  đội. Để cho hợp lệ, nay tạm cấp văn bằng là Ngoại Ủy  Phó Suất Cơ, để điều động cơ viên tên gọi là Suất Đội dõng binh (5).  Theo đó trông nom người của mình trong việc quân. Ngay lập tức tập họp quân đội nơi biên ải kết hợp với việc huấn luyện binh sĩ theo khuôn phép. Hãy nỗ lực phấn đấu. Nếu mà chẳng siêng năng, thì đã có quân lệnh của ta.
Phần trên là bằng cấp.
Giao cho Phó Suất cơ Đỗ Đăng Tào làm bằng chứng.
Ngày 28 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 15 ( 06.04.1834 DL).
( Dấu ấn 討逆左將軍之印: Thảo nghịch Tả Tướng Quân chi ấn viết bằng chữ Triện).

(Hai dấu ấn nhỏ đóng phía dưới là dấu ấn 左將軍: Tả Tướng Quân viết bằng chữ Triện).


H03. Mặt sau Vệ Thủy miếu phường Vĩnh Mỹ.



H04. Vệ Thủy Thần miếu tại Xẻo Bún, xã Mỹ Hội Đông huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

H05 Thần vị Đỗ Đăng Tào tại Xẻo Bún.
Qua tờ  lệnh bổ nhiệm này, chúng tôi đã giải mã được một số vấn đề quan trọng sau :

1.   Phần đầu cột 1 thiếu 4 chữ Thảo Nghịch Tả Tướng trước chữ  Quân là chức vụ của Tống Phước Lương. Tước Vĩnh Thuận Hầu của ông được ghi trong tờ lệnh này nhưng trong các tài liệu khác lại không thấy ghi. Tham Tán Đại Thần tại thời điểm năm 1834 tại An Giang là của Lê Đăng Doanh chứ không phải là Lê Đại Cương. Lúc đó Lê Đại Cương bị giáng xuống làm Lãnh Binh ở An Giang do không giữ được thành Châu Đốc trong vụ Lê văn Khôi nổi loạn tại thành Phiên An. Ông chính là người đề cử Đỗ Đăng Tào giữ chức Phó Suất Cơ thủy binh An Nghĩa. Nội dung ấn đóng trong tờ lệnh này là “Thảo nghịch Tả Tướng Quân chi ấn” cũng đã xác định chức vụ này của Tống Phước Lương. Bên cạnh đó là hai dấu ấn nhỏ là dấu ấn quan phòng mang tên Tả Tướng Quân.  Đến giữa năm 1834 ông mới giao chức Tả Tướng quân lại cho Nguyễn Xuân.( Đại Nam Thực lục tập 4a)


H06. Ngôi mộ Đỗ Đăng Tào tại Xẻo Bún.
1.   Tên Đỗ Đăng Tào (杜登曹) được ghi trong tờ lệnh và bài vị của ông tại Xẽo Bún là chính xác chứ không phải là Đỗ Đăng Tàu như một số tài liệu đã nhầm lẫn. Trên  bia mộ của ông tại Xẽo Bún cũng ghi như vậy. Ngoài ra trong tài liệu đánh máy do ông Giáo Kim tại Tân Châu ghi lại cách nay đã lâu được ông Lê Công Thời đánh máy sang vi tính cũng xác nhận là Đỗ Đăng Tào chứ không phải là Đỗ Đăng Tàu.


H07. Ông Lý Xuân Lịch mở hộp chứa tờ lệnh.


H08. Chụp lại tờ lệnh bản gốc.


3.  Trong lúc ông giữ chức Chánh Đội Trưởng đội thứ Ba thuộc cơ An Bình tại Châu Đốc, vào giữa năm 1833 quân Lê văn Khôi chiếm thành Châu Đốc. Không giữ nỗi mặt đường sông do quân giặc quá mạnh, vì vậy ông bị cách chức Chánh Đội Trưởng ( cách chức lưu) nhưng sau đó xét thấy ông có có công cùng với trai tráng trong làng kết hợp với quân triều đình đẩy được quân Lê văn Khôi và quân Xiêm ra khỏi thành Châu Đốc nên được Lê Đại Cương lúc đó làm lãnh binh tại An Giang đặc cách đề cử ông tạm chức vụ Phó Suất Cơ phụ trách cơ thủy binh An Nghĩa tuần tiểu trên sông Châu Đốc và huấn luyện dõng binh tại địa phương. Cơ An Nghĩa là những đội bao gồm những trai tráng tại địa phương có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, chống lại giặc cướp và hỗ trợ cho binh sĩ triều đình chứ  không phải là đội quân chính qui. Vì vậy chức vụ Phó Suất Cơ không nằm trong biên chế của các quan võ triều đình. Nó dưới chức Phó Quản Cơ và Quản Cơ quản lý khoảng 500 người. 


H09. Bản gốc tờ lệnh.



H10. Bản phục chế tờ lệnh.




H11. Bản phiên âm và dịch nghĩa tờ lệnh.

4.   Trong cột cuối của tờ lệnh ghi niên hiệu bị thiếu mất 3 chữ “ Minh Mạng thập” nên một số nhà nghiên cứu đoán là Tự Đức ngũ niên là không chính xác. Đúng ra nó phải là “ Minh Mạng thập ngũ niên….” bởi vì thời gian Tống Phước Lương giữ chức Tả Tướng Quân và Lê Đăng Doanh giữ chức Tham Tán Đại Thần khoảng giữa năm 1833. Do đó tờ lệnh ông ký cho Đỗ Đăng Tào là Minh Mạng thập ngũ niên ( 1834) chứ không phải là Minh Mạng ngũ niên(1824) hay Tự Đức ngũ niên ( 1852). Vào năm 1833 khi Lê văn Khôi nổi loạn tại thành Phiên An, vua Minh Mạng cho đúc 3 chiếc ấn: ấn Bình Khấu Tướng Quân giao cho lão tướng Trần văn Năng; ấn Thảo Nghịch Hữu Tướng Quân giao cho Phan văn Thúy còn Trương Minh Giảng làm Tham Tán Đại Thần; ấn Thảo Nghịch Tả Tướng Quân giao cho Tống Phước Lương còn Lê Đăng Doanh làm Tham Tán Đại Thần.




H12 Dấu ấn "Thảo Nghịch Tả Tướng Quân chi ấn" trên tờ lệnh.


H13. Dấu ấn " Thảo Nghịch Tả Tướng Quân  chi ấn" đã được phục chế.


H14 Dấu ấn " Thảo Nghịch Hữu Tướng Quân chi ấn" bị ghi nhầm là Thảo Nghịch Tả Tướng Quân.


H15. Dấu ấn "Tả Tướng Quân" trên tờ lệnh.


H16. Dấu ấn : Tả Tướng Quân" đã được phục chế.
5.   Dấu ấn được đóng trong tờ lệnh này là dấu ấn “ Thảo nghịch Tả tướng quân chi ấn” viết bằng chữ triện. Ngoài ra trên tờ lệnh còn 2 dấu ấn nhỏ nữa nhưng đã mờ. Qua việc đi điền dã vào ngày 24.03.2018 tôi đã tiếp cận được bản gốc của tờ lệnh này tại Vệ Thủy Miếu tại Xẻo Bún xã Mỹ Hội Đông . Nhờ chụp hình và xử lý hình ảnh tôi đã đọc được dấu ấn nhỏ này là dấu ấn quan phòng “Tả Tướng Quân” mà Tống Phước Lương đang nắm giữ.



H17. Tờ sắc chỉ đời Tự Đức nguyên niên cấp cho ông Đỗ Đăng Tào hiện được lưu giữ tại nhà ông Nguyễn văn Tuấn, phường Vĩnh Mỹ , TP Châu Đốc.

6. Qua những điều được giải mã trên chúng ta nhận thấy Đỗ Đăng Tào là một người có nhiều nghị lực, giỏi võ mặc dầu trình độ học vấn không cao. Ông tận tụy với nhiệm vụ của mình cùng với người bạn từ thuở thiếu thời là Lê văn Sanh mà ông tiến cử làm phụ tá cho mình. Lê văn Sanh sau này được phong làm Chánh Đội Trưởng đội thủy binh vào thời Thiệu Trị và sao đó đã trúng tuyển kỳ thi sát hạch để giữ lại chức này vào thời Tự Đức. Qua 2 tờ sắc chỉ được tìm thấy mới đây tại nhà ông Lê văn Khanh, tại chợ Tham Buôn, xã Mỹ Hội Đông cho thấy vào năm Thiệu trị thứ 6 (1846), ông Lê văn Sanh đã được đề cử làm Chánh Đội Trưởng Suất Đội Nội biền binh thuộc đội thứ 8 cơ Tiền. Vào năm Tự Đức thứ 16 (1863), ông Lê văn Sanh đã được đề bạt lên chức Bang Biện Phó Quản Cơ nắm giữ cơ Nội biền binh phụ trách an ninh đường thủy trên sông Châu Đốc.Tình bạn gắn bó giữa hai người trong việc tuần tra trên sông và tảo trừ giặc cướp đem lại an bình cho người dân địa phương trong suốt 3 triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức nên người dân không dám gọi tên thật mà chỉ gọi là ông Chánh Vệ Thủy và Phó Vệ Thủy. Ngoài chức vụ mà  địa phương  còn lưu giữ được của Đỗ Đăng Tào là Phó Suất Cơ vào năm Minh Mạng thứ 15, chúng tôi còn tìm thấy được tại nhà ông Nguyễn văn Tuấn nguyên là Chánh hội trưởng Vệ Thủy miếu tại Châu Đốc tờ sắc chỉ được cấp vào năm Tự Đức nguyên niên (1848) hiện do anh Nguyên Xuân Thu là con ông Nguyễn văn Tuấn lưu giữ, đã mất rất nhiều chữ. Qua việc đối chiếu với các sắc chỉ của ông Lê văn Sanh chúng tôi đã hiệu đính và phục chế lại tờ sắc chỉ này. Nội dung tờ sắc chỉ này là bổ nhiệm ông Đỗ Đăng Tào từ Phó Quản Cơ lên Thự Quản Cơ cai quản cơ Vệ Thủy tại Châu Đốc. Điều này chứng tỏ là người dân gọi 2 ông là Chánh Cơ và Phó Cơ  là đúng sự thật.   
7. Việc ông cùng với Lê văn Sanh gia nhập vào nghĩa quân của Quản cơ Trần văn Thành trong cuộc khởi nghĩa ở Bảy Thưa cũng là do người dân địa phương kể lại. Tuy nhiên trong hồ sơ về những người theo Quản cơ Trần văn Thành không có tên 2 người này. Thời gian ông rút quân về Láng Linh cách cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa khoảng 6,7 năm. Như vậy có khả năng hai ông lui về quê nhà mai danh ẩn tích và mất tại đó chứ không tham gia cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa. Ông Đỗ Đăng Tào mất vào ngày 19.06 âm lịch còn ông Lê văn Sanh mất vào ngày mùng 2.10 âm lịch không rõ năm. Ngôi mộ của hai ông lúc đầu nằm ở ngoài đồng trống, không có bia mộ. Mãi đến sau năm 1954, con cháu mới di dời ngôi mộ về gần nhà và lập mộ bia. Mộ của ông Đỗ Đăng Tào cũng vừa mới được trùng tu lại khang trang trong thời gian gần đây. Tại quê  nhà của Đỗ Đăng Tào, ngôi Vệ Thủy Thần miếu thứ hai cũng được con cháu của ông xây dựng , bên trong có đặt bài vị hai ông Đỗ Đăng Tào và Lê văn Sanh cùng với bản sao tờ vi bằng bổ nhiệm của của ông được đặt trang trọng trên bàn thờ.
Để tưởng nhớ công lao của hai ông, người dân tại Châu Đốc lập một ngôi miếu nhỏ bên bờ sông Châu Đốc để thờ. Ngôi miếu này lúc đầu chỉ đơn sơ bằng tre lá. Đến năm 1953, hai ông Hương chủ Đinh văn Học và Hương sắc Lê Công Hội mới vận động dân chúng trong vùng trùng tu lại ngôi miếu. Lần trùng tu cuối cùng vào năm 2013 để có được ngôi miếu khang trang như hiện nay.
Sau khi ngôi miếu được trùng tu vào năm 1953, Đỗ Đăng Tào có giáng cơ về ban cho hai câu đối :

奉 命 皇 朝 開 基 業
水 兵 敕 賜 在 邊 垂
Phiên âm:
Phụng mệnh Hoàng triều khai cơ nghiệp
Thủy binh sắc tứ tại biên thùy
Dịch nghĩa:
Vâng lệnh triều đình lập nên cơ nghiệp,
Được vua sắc phong Thủy binh ở chốn biên thùy.

衛 縂 基 圖 德 化 皇 朝 由 道 聖
水 城 社 稷 江 山 南 國 正 為 神
Phiên âm:
Vệ tổng cơ đồ đức hoá, hoàng triều do đạo thánh
Thủy thành xã tắc giang sơn, Nam quốc chánh vi thần
Dịch nghĩa:
Bảo vệ cơ đồ công đức, triều đình phong là thánh
Giữ gìn xã tắc giang sơn, nước Nam gọi là thần.
Ngoài ra trong miếu còn nhiều bức hoành phi do người dân cảm phục tài đức của hai ông gởi tặng như :
-    武 聖 平 賊 : Võ Thánh bình tặc (Thánh võ dẹp giặc cướp).
-   鈴 鎮 江 邊 : Linh chấn giang biên ( Chuông vang bên bờ sông).
-           :  Vĩ tí linh từ (  Đền thờ  người canh giữ bên sông).
-           : Đề đao định quốc ( Vung đao bảo vệ đất nước).
Việc xác định tiểu sử và công lao của hai ông Đỗ Đăng Tào và Lê văn Sanh tại Châu Đốc không chỉ là mối quan tâm của dân chúng mà còn là của chính quyền địa phương. Dự kiến sau buổi hội thảo này, thành phố Châu Đốc sẽ lấy tên của hai ông đặt cho tên đường tại Châu Đốc ; đồng thời tiểu sử của hai ông cũng được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để mọi người biết đến bởi vì những tư liệu về hai ông rất ít, chỉ những nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử của địa phương mới có điều kiện tiếp xúc với những tư liệu nêu trên. Đây cũng là cách để giáo dục các thế hệ trẻ giữ gìn truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, bảo vệ những di sản văn hóa mà tiền nhân đã dày công gây dựng.
                                                                                                 Lâm Thanh Quang.
Ghi chú.
Những chữ gạch dưới là những chữ bị mất, nhờ tổng hợp các tư liệu mới tìm ra được những chữ này.
(1)  Chức vụ Thảo Nghịch Tả Tướng Quân là của Tống Phước Lương, vào giữa năm 1834 ông mới trao chức vụ này cho Nguyễn Xuân ( Đại Nam Thực Lục tập 4a).
(2)   Chức Tham Tán Đại Thần tại thời điểm này là của Lê Đăng Doanh.
(3)   Ông được tập ấm chức vụ của cha nguyên là Khâm Sai Cai Cơ Đỗ Đăng Khoa nên khi đầu quân đã được giữ chức Đội trưởng đội Thủy Binh.
(4)   Ông giữ đội Thủy Binh bảo vệ đường sông cho thành Châu Đốc nhưng bị mất thành do lực lượng của quân Xiêm quá mạnh nên bị cách chức.
(5)   Đội An Nghĩa thuộc cơ An Bình là đội thủy binh có nhiệm vụ bảo vệ thành Châu Đốc và giữ gìn trật tự, đánh đuổi giặc cướp tại địa phương. Đội có khoảng 50 người là trai tráng tại địa phương với biên chế là Nghĩa dõng quân.

Tài liệu tham khảo :
1.     Bản gốc tờ lệnh cấp cho ông Đỗ Đăng Tào vào năm Minh Mạng thứ 15 (1834) tại Vệ Thủy thần miếu ở Xẽo Bún do ông Lý Xuân Lịch lưu giữ.
2.     Bản chiếu  chỉ cấp cho ông Đỗ Đăng Tào vào năm Tự Đức nguyên niên (1848) tại nhà ông Nguyễn văn Tuấn do ông Nguyễn Xuân Thu lưu giữ.
3.     Bản đánh máy tiểu sử Đỗ Dăng Tào và Lê văn Sanh do ông giáo Kim tại Tân Châu soạn cách nay hơn 50 năm và được ông Lê Công Thời đánh máy bằng vi tính.
4.     Bản sao tờ lệnh của Binh Thành Bá Trương Minh Giảng và Tham Tán Đại Thần Lê Đại Cương cấp cho ông Nguyễn Trường Cửu là  con của Tuyên Trung Hầu Nguyễn Tuyên được lưu giữ tại phủ thờ gia đình ở Cái Tàu Thượng.
5.     Ấn chương trên châu bản triều Nguyễn (1801-1945)  do cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm lưu trữ Quốc gia 1,  nhà xuất bản Hà Nội năm 2013.