Trang

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

MÁY ĐẬP LÚA TRÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG






MÁY ĐẬP LÚA TRÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Chiếc máy tuốt lúa đầu tiên xuất hiện trên đồng bằng sông Cửu Long tại hội chợ Triển Lãm Nông Nghiệp tổ chức tại An Giang nhân dịp lễ “Người Cày Có Ruộng” 26 tháng 3 năm 1965. Chiếc máy này do I.R.I ( Viện nghiên cứu Lúa quốc Tế) thiết kế và được Nhật Bản chế tạo giới thiệu đến bà con nông dân. Kết cấu của máy này rất đơn giản bao gồm một trục bằng gỗ đặt trong một thùng cũng làm bằng gỗ. Trên trục có gắn những chiếc răng tuốt lúa là những thanh sắt hình trụ được uốn cong và gắn theo từng hàng dọc trục. Loại răng này những người thợ làm máy tuốt lúa gọi là răng nỏ. Máy được vận hành bằng cách đạp tương tự như máy may vốn phổ biến trong dân chúng. Một người vừa đạp vừa đưa lúa vào. Những chiếc răng bố trí trên trục quay sẽ tuốt những hạt lúa xuống thùng chứa ở bên dưới. Vì vậy nó được gọi là “ Máy tuốt lúa”.
Chiếc máy này thu hút được sự chú ý của những nông dân đến từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về đây tham gia hội chợ vì nó đã phá vỡ tập quán lâu đời của nông dân Việt Nam là đập và vê lúa bằng tay. Trong số những người quan tâm đến chiếc máy kỳ diệu này, có hai người nông dân mà về sau gắn bó cuộc đời mình với chiếc máy tuốt lúa : một người quê ở Vĩnh Long là một người ở An Giang tên Đặng văn Khoái mà sau này nổi tiếng với thương hiệu “ Máy tuốt lúa Ba Khoái”.
Mặc dầu không nói ra nhưng trong đầu hai người đã hình thành một ý nghĩ  là làm thế nào đưa cơ giới hóa vào để thay thế sức người và nâng cao năng suất của máy. Thế là chiếc máy tuốt lúa đầu tiên của đồng bằng sông Cửu Long ra đời tại An Giang với chiếc “máy tuốt lúa Ba Khoái” và hơn một năm sau chiếc máy tương tự xuất hiện ở Vĩnh Long  mang tên   “ Cơ Khí Vĩnh Long”.


Hình 1 : Mô hình trục tuốt lúa đầu tiên.

Việc cải tiến từ chiếc máy tuốt lúa đầu tiên sang dạng máy đập lúa như hiện nay trãi qua nhiều giai đoạn. Nhìn chung có thể chia ra làm 4 giai đoạn chính như sau :
- Giai đoạn 1 : Cải tạo trục quay máy tuốt lúa và bàn gằn lúa.
- Giai đoạn 2 : Chuyển từ dạng tuốt lúa sang dạng đập lúa.
- Giai đọan 3 : Chuyển từ dạng đẩy sang dạng tự hành.
- Giai đoạn 4 : Cải tiến hệ thống sàng lọc và nhận lúa.
Trong  các giai đoạn chính trên bao gồm các cải tiến nhỏ trong giai đoạn đó ; có lúc thành công, có lúc thất bại phải chuyển sang phương án khác. Nói chung, công trình này ngoài người khởi xướng ra là bác Ba Khoái ở An Giang còn có sự đóng góp rất nhiều của những người nông dân, những người thợ không qua trường lớp mà học hỏi từ thực tế. Chính từ những vốn sống này mà máy tuốt lúa ban đầu trở thành máy đập lúa tương đối hoàn chỉnh như hiện nay.

I. CẢI TẠO TRỤC QUAY MÁY TUỐT LÚA VÀ BÀN GẰN LÚA (1968-1974) :

 Cải tạo đầu tiên của máy tuốt lúa là dùng động cơ nổ Kholer 4HP rất phổ biến trong người dân lúc đó để làm cơ cấu truyền lực thay  thế sức người. Động cơ được lắp trên một nền bằng cây và truyền động tới trục quay của máy tuốt lúa bằng sợi cu-roa. Máy này chỉ là dạng tuốt lúa chứ không phải là đập lúa như hiện nay vì người sử dụng vẫn phải cầm từng bó lúa đưa vào cho máy ăn còn trục quay thì được truyền động do máy. Năng suất của máy mỗi ngày chỉ  được chừng 3 đến 5 công (mỗi công tầm cắt là1.000m²).Trục quay và thùng suốt được làm bằng gỗ còn hệ thống bàn gằn vẫn chưa hình thành. Những hạt lúa sau khi rơi xuống thùng chưa được phân loại phải vê lại bằng tay còn  những hạt còn sót lại trên rơm sẽ được những người khác xốc và giủ lại cho sạch.
Điều này làm trăn trở người nông dân Ba Khoái. Sau nhiều lần mài mò chế tạo thử, chiếc máy tuốt lúa thứ hai ra đời vào năm 1969. Máy tuốt lúa này vẫn là dạng máy trục ngang. Trên trục mang những răng làm bằng những thanh sắt dẹp có thể điều chỉnh được. Hạt lúa trước khi rơi xuống thùng sẽ qua một hệ thống gằn. Hệ thống này sẽ phân loại những hạt lúa chắc, lúa lép và rơm rạ dính theo. Hạt lúa chắc được rơi xuống thùng còn những hạt lép và rơm sẽ được một quạt gió hút ra ngoài. Điều này giúp giảm bớt công đoạn vê lúa và tăng năng suất tuốt lúa từ 3 công/ngày lên 10 công/ngày. Động cơ kéo tăng từ 4 HP lên 9 HP ( BS9) hoặc Yanmar F10 vì lúc này động cơ phải truyền động luôn cho hệ thống gằn. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn một số khuyết điểm : lúa sau khi gặt xong phải được gom thành từng bó theo thứ tự ngọn và gốc, sau khi tuốt xong vẫn còn những hạt lúa dính theo rơm. Do đó cần phải có một số người theo máy làm nhiệm vụ xốc rơm và giủ sạch những hạt lúa này để tránh thất thoát lúa.Từ những khó khăn trong thực tế này giúp cho bác Ba Khoái có những ý nghĩ sáng tạo mang tính đột phá : người tuốt lúa không cần phải cầm từng bó đưa vào máy tuốt và chỉ cần dồn đại vào trong thùng. Hệ thống trục quay và bàn gằn sẽ tự tuốt và phân loại lúa, còn rơm sau khi tuốt xong sẽ được phóng ra xa. Thế là máy đập lúa một trục dọc đầu tiên ra đời vào năm 1974 mang tên “Ba Khoái” được nông dân hoan nghinh thay thế cho chiếc máy tuốt lúa đã đi vào dĩ vãng.
II. CHUYỂN TỪ MÁY TUỐT LÚA SANG MÁY ĐẬP LÚA ( 1974-1983) : 
Khác biệt giữa máy tuốt lúa và máy đập lúa là trục quay từ dạng nằm ngang chuyển sang dạng xuôi, lúa không cần phải sắp theo thứ tự đầu và gốc và kết cấu từ gỗ chuyển sang kim loại để tăng độ bền và năng suất. Đầu tiên, do không đủ điều kiện chế tạo trục quay có đường kính lớn nên ông dùng ống  có đường kính khoảng 160mm làm trục quay. Những chiếc răng dài bằng sắt dẹp được gắn xung quanh trục theo hình xoắn ốc. Người tuốt lúa cho lúa vào một lỗ ở một đầu, những bó lúa sau khi đưa vào sẽ được cuốn xung quanh trục theo hình xoắn ốc và bị các răng trên tuốt các hạt lúa. Ngoài ra do lực ly tâm nên những bó lúa trên sẽ bị va đập vào thành thùng. Chính lực va đập này sẽ làm cho những hạt lúa còn sót lại rơi qua lưới và rớt xuống bàn gằn đặt ở phía dưới thùng. Còn rơm ở cuối hành trình sẽ được phóng ra xa bằng một lỗ thoát đặt nghiêng 45° so với mặt phẵng ngang. Năng suất máy tăng từ 15 công/ ngày lên 30 công / ngày. Hệ thống bàn gằn vẫn không thay đổi so với trước đây nghĩa là dùng bàn gằn ngang và quạt hút. Hệ thống này vẫn còn một khuyết điểm là thường bị rơm quấn trên trục làm quá tải và làm tắt động cơ nhất là đối với loại lúa sạ mùa nước có thân dài.
Để khắc phục khuyết điểm trên, ông nghĩ cách dùng hai chai gió đá cắt đầu nối lại với nhau tạo thành một trục quay có đường kính khoảng 0.25 mét. Các răng được sắp theo hình 5 dãy thẳng và có thể thay đổi góc độ để điều chỉnh cho từng loại lúa. Hệ thống bàn gằn cũng được cải tạo lại thành gằn xuôi và dùng quạt thổi để tách rời các hạt lúa lép và bông cỏ ra khỏi những hạt lúa tốt. Rơm sau khi ra khỏi ống phóng đã được giủ sạch các hạt lúa và năng suất của máy tăng lên gấp 1,5 lần. Đây là một cải tiến quan trọng vì nó thỏa mãn được 3 yếu tố cơ bản : không cần sắp lúa theo thứ tự, lúa được phân loại chính xác và rơm được giủ sạch hạt trước khi được phóng ra xa. Trục quay được năng lên từ 0,25 đến 0,35 mét và sử dụng  2 chai ga nối đầu thay vì chai gió đá.
 

Hình 2 : Gia đình bác Ba Khoái bên trục đập lúa đầu tiên.

Quá vui mừng trước sự thành công này, nhiều nơi cải tiến máy đập lúa từ 1 trục sang 2 trục rồi 3 trục. Năng suất tuy có tăng nhưng hiệu quả lại không cao vì phải dùng động cơ có công suất lớn ( từ 15HP đến 20HP) để kéo làm mất đi tính cơ động của máy đập lúa là phải di chuyển thường xuyên trên đồng ruộng có nhiều sình lầy và các bờ bao. Vì vậy, họ đành quay lại với phương án một trục quay. Tùy theo điều kiện và tình hình từng vùng mà chiều dài trục quay thay đổi từ 1,6 mét đến hơn 2,5 mét. Răng tuốt được bố trí thành 3 dây xoắn thay vì 5 dây thẳng như lúc đầu. Giai đoạn này được xem là giai đoạn chính  mang tính đột phá trong quá trình hình thành máy đập lúa. Chiếc máy đập lúa “Ba Khoái” đời thứ hai này được phổ biến trên khắp đồng bằng sông Cửu Long và một nghề mới vừa được hình thành : nghề “ đập lúa mướn” tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động vào cuối vụ mùa. Mỗi nhóm khoảng 4,5 người với một máy đập lúa đi khắp nơi trong vòng 3 tháng có thể dủ nuôi sống cho cả gia đình cả năm.
Máy đập lúa thương hiệu “ Ba Khoái” không những đến với nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long mà còn xuất khẩu sang nước bạn Campuchia đến tận biên giới Thái lan.
Xí Nghiệp Cơ Khí tỉnh An Giang với những điều kiện thiết bị của mình đã thành công trong việc cuốn trục quay của máy đập lúa bằng tôl tấm giúp người thợ không cần phải dùng chai ga càng ngày càng hiếm trước nhu cầu tăng cao. Xí nghiệp cũng đã giới thiệu sản phẩm của mình đến các tỉnh ở miền Bắc và được mọi người ưa chuộng. Những mẫu máy đập lúa do xí nghiệp Cơ Khí An Giang sản xuất này xuất phát từ mô hình máy đập lúa một trục của bác Ba Khoái với một số cải tiến như cách bố trí răng, đường kính và chiều dài trục………
Phong trào sản xuất máy đập lúa từ chiếc máy thế hệ thứ hai của bác Ba Khoái lan rộng ra các huyện thị trong tỉnh An Giang và lan sang các tỉnh bạn như Đồng Tháp, Vĩnh Long, Minh Hải…..


Hình 3 : Chiếc máy đập lúa  Ba Khoái tại cuộc hội thi

Trong cuộc hội thi giữa các nhà chế tạo máy tuốt lúa tổ chức vào năm 1981, máy đập lúa của bác Ba Khoái hơn hẳn các nơi khác như Vĩnh Long, Đồng Tháp, Minh Hải….. về các tính năng như năng suất, độ sạch của lúa và mức thất thoát lúa…..Để khen thưởng sáng kiến của ông, năm 1983 Tổng Công Đoàn VN đã trao tặng ông bằng khen và một số phần thưởng. Dầu mang tính tượng trưng nhưng nó cũng đã góp phần động viên ông tiếp tục nghiên cứu cải tiến máy đập lúa ngày càng được tốt hơn để không phụ lòng kỳ vọng của nông dân  và công cuộc cơ giới hóa nông nghiệp của đất nước bắt đầu vào thời kỳ đổi mới.( Phần thưởng chỉ là một bằng khen và một đồng hồ để bàn của Liên Xô sản xuất giá chỉ khoảng hơn 10 đồng vào thời điểm 1983 )



Hình 4 : Bác Ba Khoái được trao tặng bằng khen.

















Hình 5 : Bằng khen lao động sáng  tạo do TCĐ VN tặng bác Ba Khoái năm 1983.
 III.CHUYỂN TỪ DẠNG ĐẨY SANG DẠNG TỰ HÀNH :(1983-1998)

Một yêu cầu không kém phần quan trọng khác là máy đập lúa phải có tính cơ động. Nghĩa là nó phải tự di chuyển trên  đường lộ cũng như trên đồng ruộng, vượt qua các bờ bao. Ý nghĩ đầu tiên của bác Ba Khoái là sử dụng khung gầm từ các xe 4 bánh nhỏ được các cơ quan nhà nước thanh lý vì đã quá hạn sử dụng. Thế nhưng loại khung gầm này không thích hợp với máy đập lúa vì nó có bề ngang quá rộng. Sau nhiều đêm suy nghĩ ông tự thiết kế khung gầm riêng cho máy đập lúa, chỉ sử dụng giàn cầu và mâm bánh từ máy xe hơi. Thế là một loại xe mới chưa từng có trong lịch sử ngành xe hơi ra đời : “Máy đập lúa tự hành” có thể di chuyển trên đường lộ  lẫn đường đồng. Mặc dầu tốc độ không cao bằng xe hơi nhưng nó đã góp phần đưa máy đập lúa đi khắp nơi trên khắp đồng bằng sông Cửu Long. Nó cũng có thể được sử dụng để mang lúa từ đồng ruộng về nhà bằng những giá đỡ dọc theo hai bên hông. Từ một chiếc máy đập lúa chuyên dùng nó trở thành một công cụ đa năng giúp cho nhà nông vượt qua mọi khó khăn trong việc thu hoạch lúa.
Lúc đầu hệ thống tự hành chỉ sử dụng một cầu. Điều này thật bất tiện khi lên xuống xuồng để đến nơi làm việc vì với chiều cao quá mức nếu người lái điều khiển không  khéo léo nó sẽ dễ dàng bị lật nhất là khi qua những đường bờ bao. Ngoài ra khi gặp đường ruộng nhiều sình lầy, nó có thể bị lún và không thể chạy được. Để khắc phục hiện tượng này, các nhà chế tạo máy đập lúa cải tiến hệ thống tự hành từ một cầu sang hai cầu tương tự như xe Jeep dùng trong quân đội của Mỹ ở miền Nam. Nhờ vậy mà máy đập lúa có thể di chuyển khắp nơi trên mọi địa hình.
Trong giai đoạn này mọi sáng kiến cải tiến đều tập trung vào việc cải tiến răng trên trục cho phù hợp với nhiều loại lúa và hoàn chỉnh hệ thống tự hành.Thùng đập cũng được cải tiến từ dạng hai hông thẳng sang dạng bầu tròn.


Hình 6 : Máy đập lúa “ Ba Khoái” di chuyển trên sông.
IV.CẢI TIẾN HỆ THỐNG SÀNG LỌC VÀ NHẬN LÚA (1998-2003)

Trước đây, lúa sau khi qua hệ thống gằn và vê xong, người vận hành máy đập lúa phải hứng lúa bằng thúng vê, sau đó mới đổ vào bao. Việc này đòi hỏi hai nhân công, một người cầm miệng bao hứng lúa còn một người bưng lúa đổ vào. Để giảm số người trên chỉ còn một người, một sáng kiến mới được ứng dụng vào thực tế : chế tạo thêm bộ phận  đưa lúa ra ngoài. Người vận hành chỉ cần kê miệng bao vào máng đưa lúa ra để hứng lấy lúa.
Sáng kiến này được áp dụng từ mô hình các máy xay lúa lưu động rất phổ biến ở nông thôn. Đầu tiên, các nhà sản xuất máy đập lúa dùng hệ thống “bồ đài” ( loại băng tải có mang gàu xúc ) để đưa lúa từ buồng chứa ra ngoài. Tuy nhiên, hệ thống này rất cồng kềnh nên không phát huy được tác dụng. Không chịu lùi bước, nhà sản xuất chuyển sang dùng loại vít tải tương tự như cối xay cà phê. Sáng kiến này tỏ ra rất hiệu quả và nhanh chóng được ứng dụng vào máy đập lúa.
Từ lúc bắt đầu hình thành đến nay, máy đập lúa đã trãi qua nhiều giai dọan thăng trầm. “ Cái khó ló cái khôn”, chính từ thực tế mà những người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long mà điển hình là bác Ba Khoái đã dùng khối óc và con tim của mình để cải tạo chiếc máy tuốt lúa đơn giản đầu tiên trở thành chiếc máy đập lúa tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Khi Bác đã già thì người con là anh Bảy Luận cũng nối bước theo người cha gắn liền cuộc đời mình với chiếc máy đập lúa mang tên “Bảy Luận”. Máy đập lúa hiện nay không những chỉ đập được lúa mà còn có thể tách được hạt của các loại nông sản khác như đậu nành, mè và các hạt rau muống.
Các máy đập lúa do Thái Lan sản xuất bắt chước từ máy đập lúa của Việt Nam xuất hiện trên thị trường Campuchia nhưng về tính năng không thể sánh bằng máy đập lúa của Việt Nam. Giá thành của nó cũng cao hơn nên người dân Campuchia thích sử dụng máy đập lúa của Việt nam hơn nhất là máy đập lúa mang thương hiệu “ Bảy Luận” do người con thứ bảy của bác Ba Khoái chế tạo.


 Hình 7 : Bác Ba Khoái lúc chụp năm 74 tuổi ( hiện nay ông đã hơn 80 tuổi ) 
nhưng vẫn còn tráng kiện.


Hình 8 : Bác Ba Khoái và anh Bảy Luận :
                                    Hai thế hệ tiếp nối nhau gắn bó với máy đập lúa.            
Mong muốn của những người chế tạo máy đập lúa ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Việt Nam nói chung là nhà nước mình nên tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về máy đập lúa. Trong đó các nhà chế tạo máy đập lúa có dịp ngồi lại với nhau để trao đổi những kinh nghiệm trong quá trình cải tạo máy đập lúa đồng thời cùng nhau bảo vệ thương hiệu máy đập lúa của Việt Nam. Nếu đăng ký thương hiệu “ Máy đập lúa Việt Nam” với quốc tế chúng ta tránh trường hợp bị cướp bản quyền như trong vụ kiện tụng tranh chấp bản quyền của “ võng xếp Duy Lợi” tại Nhật Bản. Trong đó nhà sáng chế phải mất nhiều thời gian và tiền bạc mới giành lại được quyền bảo hộ bản quyền cho mình, nhất là trong giai đoạn như hiện nay Việt Nam sắp sửa hòa nhập nào AFTA và WTO. Đây là việc chúng ta cần nên làm để động viên các nhà “trí thức chân đất” đóng góp kinh nghiệm và năng lực của mình vào công cuộc đổi mới đất nước từ nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn tiến tới một nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại.
 LÂM THANH QUANG
 Ghi chú : Bài viết này cách nay gần 10 năm. Hiện  nay người nông dân   đã chuyển sang sử dụng máy gặt đập liên hợp. Buồn thay những sáng kiến phát minh này do người nông dân ít học làm nên còn các vị “Tiến sĩ bàn giấy” thì đứng ngoài cuộc chơi này.

                    



Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Lễ giỗ cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa năm 2014



LỄ GIỖ THỦ KHOA NGHĨA NĂM 2014
Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), trước có tên là là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi; đậu thủ khoa tại kỳ thi Hương ở Gia Định vào năm 1835 dưới triều vua Minh Mạng. Ông còn  nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam.
Ông được người đời tôn sùng không chỉ do việc đậu thủ khoa tại kỳ thi Hương mà là do tính tình khẳng khái, làm quan thanh liêm đặc biệt là chống lại bọn cường hào ác bá tại địa phương. Vụ án ở Láng Thé khiến ông bị triều đình kết tội xúi dục dân làm loạn . Vợ ông là bà Nguyễn thị Tồn vượt ngàn sóng gió ra đến kinh thành để kêu oan cho chồng nên ông được miễn tội chết và bị đi đày làm lính thú ở Vĩnh Thông.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, Bùi Hữu Nghĩa xin từ chức, về quê dạy học. Nhà ông là nơi các sĩ phu yêu nước gặp gỡ, bàn bạc việc chống Pháp cứu nước.
Người dân Nam bộ thường nhắc đến ông qua câu ca dao :
Đồng Nai có bốn rồng vàng,
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi.
 Ông lâm bệnh và mất ngày 21 tháng 01 năm Nhâm Thân (1872), thọ 65 tuổi.
Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa được thành lập cách nay hơn 60 năm. Nơi đây đã từng đào tạo những nhân tài trong và  ngoài tỉnh An Giang.  Nhân dịp lễ giỗ Thủ Khoa Nghĩa vào ngày 21 tháng giêng âm lịch, các cựu giáo viên và học sinh của trường cùng về đây thắp hương để tưởng nhớ công lao của một nhà nho đã đem tài học của mình phục vụ cho người dân, chống lại cường quyền và giữ gìn đạo đức, thanh liêm của một kẻ sĩ .
Lâm Thanh Quang
Dưới đây là những hình ảnh trong này lễ giỗ năm 2014.


 Hình 1 : Lễ giỗ cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa năm 2014.


       Hình 2 : Ban Giám Hiệu và Giáo viên qua các thời kỳ.

                           Hình 3 : Cựu giáo viên 1. 
                    Hình 4 : Cựu học sinh trường TKN 1. 
                        Hình 5 : Cựu học sinh trường TKN 2. 
                      Hình 6 : Cựu học sinh trường TKN 3. 

                       Hình 7 : Cựu học sinh trường TKN 4.
 

                       Hình 8 : Cựu học sinh trường TKN 5.
 

                      Hình 9 : Cựu học sinh trường TKN 6.


                     Hình 10 : Cựu học sinh trường TKN 7.


                     Hình 11 : Cựu học sinh trường TKN 8.


                           Hình 12 : Múa Đất phương Nam 1.


                           Hình 13 : Múa Đất phương Nam 2.


                          Hình 14 : Múa Đất phương Nam 3.
 

                            Hình 15 : Nêu ý nghĩa của lễ giỗ.


            Hình 16 : Sân lễ nơi đặt tượng cụ Bùi Hữu Nghĩa.


             Hình 17 : Chuẩn bị rước hương từ miếu Tiên Sư.


                               Hình 18  : Khởi hành.


                            Hình 19 :  Miếu Tiên Sư.


                             Hình 20 : Đến miếu Tiên Sư.


                        Hình 21 : Đốt hương khấn vái.


       Hình 22 : Niệm hương.
 

                        Hình 23 : Rời khỏi miếu Tiên Sư.


                                   Hình 24 : Về đến trường.

                                    Hình 25 : Đánh chiêng.
 

                                      Hình 26 : Đánh trống.




                 Hình 27 : Ban tổ chức niệm hương.



              Hình 28 : Phỏng vấn hiệu trưởng Lê Đỗ Huy.