Những khám phá mới về hai bài thơ trên tấm bình phong
phía sau mộ Thoại Ngọc Hầu
Lăng Thoại Ngọc
Hầu nằm trong quần thể cụm di tích văn hóa lịch sử núi Sam thuộc thành phố Châu
Đốc tỉnh An Giang đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1997.
Lăng nằm đối diện với miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, lưng tựa vào núi nên còn được gọi
là sơn lăng. Đây là một công trình kiến trúc đậm nét văn hóa của
lăng tẩm cố đô Huế , được bố trí hài hòa với cảnh quan chung quanh. Bước lên những
bậc thang được làm bằng đá ong được mang từ Biên Hòa vào là một khoảng sân rộng
và phẵng rồi mới đến hai cửa lăng nằm ở hai bên. Ở giữa lăng là long đình là
nơi đặt một tấm bia và các câu đối trên cột. Mặt trước bia là bia thờ Thoại Ngọc
Hầu còn mặt sau bia là bia Thoại Sơn đã được phục chế. Lăng được bao bọc bởi một
lớp tường thành dày hơn 1m, cao khoảng hơn 2m làm bằng chất liệu hỗn hợp vôi,
cát, mật đường và nhựa ô dước mặc dầu trãi qua gần 200 năm nhưng vẫn còn nguyên
vẹn(1). Trong vòng thành sân lăng còn có 14 ngôi mộ bằng ô dước của
những thân nhân theo ông hy sinh trong thời gian đào kinh. Có tư liệu cho rằng
đây là mộ của gánh hát bộ Quảng Nam đã chết trong khi phục vụ cho dân binh đào
kinh Vĩnh Tế. Tuy nhiên đây mới chỉ là phỏng đoán chứ chưa được kiểm chứng
chính xác.
H01. Ngôi mộ bên trong lăng Thoại Ngọc Hầu.
Bia Vĩnh Tế Sơn được đặt ở giữa vách sau của lăng với
hoa văn sắc xảo nhưng nét chữ đã mờ nhạt chỉ còn đọc được một số chữ. Bên cạnh Vĩnh
Tế Sơn là 4 bia cổ của vương quốc Phù Nam. Một số bia đã được mài nhẳn các chữ,
chỉ có bia bên phải còn sót lại một số chữ Phạn chưa bị mài nhẳn nhưng nét chữ
đã mờ.
H02. Bia Vĩnh tế Sơn.
Ngôi mộ của Thoại Ngọc Hầu nằm ở chính giữa sau 2 bức
bình phong còn hai vị phu nhân ở hai bên : nhìn từ trước vào thì mộ chính thất
Châu thị Tế nằm ở bên trái còn thứ thất Trương thị Miệt nằm phía bên phải nhỏ
hơn và hơi lui về phía trước.
Phía sau mộ của bà Châu thị Tế và Thoại Ngọc Hầu là
hai tấm bình phong trên đó có khắc hai bài thơ. Do thời gian đã quá lâu nên những
nét chữ trên hai tấm bình phong này đã mờ và bị mất nét. Những người trùng tu về
sau này tô lại nên không còn giữ được nguyên vẹn của bài thơ. Có người cho rằng
bài thơ này được khắc cùng lúc với việc xây dựng sơn lăng vào cuối đời của Thoại
Ngọc Hầu khoảng năm 1825-1829 sau khi ông hoàn thành công trình đào kinh Vĩnh Tế.
Qua việc khảo sát một số nét chữ còn sót lại trên hai tấm bình phong chúng tôi
đã khám phá ra một số điều thú vị mà chưa từng một nhà nghiên cứu nào nhắc đến.
. H03 Bình phong bên trái sau mộ bà Châu Thị Tế khắc
bài Tống hữu Nhơn của Lý Bạch.
Điều thú vị trước tiên là hai bài thơ này được lấy từ
bài Tống hữu Nhơn và Cung Trung hành Lạc Kỳ 4 của nhà thơ Lý Bạch đời Đường tuy
đã được cải biên. Việc cải biên bài thơ này chúng tôi sẽ phân tích ở phần sau.
Nguyên văn của bài thơ Tống hữu nhơn như sau.
送友人
Dịch âm :
Tống hữu nhơn
Thanh sơn
hoành bắc quách,
Bạch thuỷ nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lý chinh.
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mã minh.
Bạch thuỷ nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lý chinh.
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mã minh.
Bản dịch của Trần Trọng
San :
Thơ tiển bạn
Núi ngang ải bắc xanh xanh,
Một dòng sông trắng lượn quanh đông thành.
Nơi đây cất bước viễn hành,
Cỏ bồng muôn dặm một mình xa xôi.
Ý du tử: đám mây trôi;
Tình cố nhân: ánh nắng chiều vấn vương.
Vẫy tay từ đấy lên đường,
Tiếng con ngựa hý đau thương lìa đàn.
Một dòng sông trắng lượn quanh đông thành.
Nơi đây cất bước viễn hành,
Cỏ bồng muôn dặm một mình xa xôi.
Ý du tử: đám mây trôi;
Tình cố nhân: ánh nắng chiều vấn vương.
Vẫy tay từ đấy lên đường,
Tiếng con ngựa hý đau thương lìa đàn.
Nguyên văn của bài
Trung cung hành lạc kỳ 4 của Lý Bạch.
Cung
trung hành lạc kỳ 4
Ngọc
thụ xuân quy nhật,
Kim cung lạc sự đa.
Hậu đình triêu vị nhập,
Khinh liễn dạ tương qua.
Tiếu xuất hoa gian ngữ,
Kiều lai trúc hạ ca.
Mạc giao minh nguyệt khứ,
Lưu trước túy Thường Nga.
Kim cung lạc sự đa.
Hậu đình triêu vị nhập,
Khinh liễn dạ tương qua.
Tiếu xuất hoa gian ngữ,
Kiều lai trúc hạ ca.
Mạc giao minh nguyệt khứ,
Lưu trước túy Thường Nga.
Bản dịch của Nguyễn Minh.
Thú vui trong cung kỳ 4
Xuân đã về trên cây ngà ngọc
Trong cung vàng nhiều tiệc vui chơi.
Sân sau nắng sớm chưa lai,
Xe vua còn phủ đêm dài chưa qua.
Tiếng cười nói trong hoa vọng tới,
Người đẹp ca dưới bụi trúc xanh.
Đừng cho đi mất ánh trăng,
Đặng ta chuốc rượu nàng Hằng Nga say.
Trong cung vàng nhiều tiệc vui chơi.
Sân sau nắng sớm chưa lai,
Xe vua còn phủ đêm dài chưa qua.
Tiếng cười nói trong hoa vọng tới,
Người đẹp ca dưới bụi trúc xanh.
Đừng cho đi mất ánh trăng,
Đặng ta chuốc rượu nàng Hằng Nga say.
H04. Bài thơ Cung trung hành lạc kỳ 4 được khắc trên tấm
bình phong phía sau mộ Thoại Ngọc Hầu.
Một điều lạ là
khi đối chiếu hai bài thơ trên vách phía sau mộ bà Châu thị Tế và Thoại Ngọc
Hầu chúng ta nhận thấy có một số câu không giống như nguyên tác. Nếu loại trừ những
chữ bị tô sai trong những đợt trùng tu vào năm 1996 và năm 2010 thì một số câu
trên bài thơ nguyên tác bị cắt đi và thêm vào những câu do người khắc tạo ra.
Một số người
cho rằng hai bài thơ này được khắc vào đầu thế kỷ 20 nhưng sau khi đối chiếu
nét khắc trên 2 bia tại lăng Thoại Ngọc Hầu với nét khắc bài Phù Dung lâu tống
Tân Tiệm kỳ 1 của Vương Xương Linh tại tấm bình phong bên mộ bà Nguyễn thị
Tuyết là mẹ Thoại Ngọc Hầu được ông trùng tu lại vào đầu thập niên 1820 thì 2
bài thơ này do cùng một người khắc. Vì thế chúng tôi có thể khẳng định là hai
bài thơ của Lý Bạch được ông cho khắc lúc xây sơn lăng tại núi Sam, Châu Đốc.
Nếu
phân tích bài Tống hữu nhơn trên tấm bình phong so với nguyên tác ta thấy có
một số khác biệt như sau :
- Cách bố cục của bài thơ trên
tấm bình phong mỗi cột là 6 chữ không giống với thể loại ngũ ngôn bát cú theo
nguyên tác.
Sai sót này có thể là
do những người trùng tu về sau này không nắm rõ những chữ bị mờ hay mất trên
bia nên tô nhầm.
Một điều lạ là hai câu cuối của bài thơ lại được thay bằng
2 câu khác, chỉ giữ lại 3 chữ sau cùng là ban mã minh.
Nguyên văn 2 câu cuối trên bia là :
此闲来𢓸嗳 (thử nhàn lai
vãng ái)
( chữ tiêu bị thiếu mất 1 chữ)
So với nguyên
tác :
Ngoài ra ở
cuối bài còn có lạc khoản ghi là : 書扵溈岐心
(thư ư vi kỳ tâm : viết cho người tên là Vi Kỳ Tâm.
Đối với bài thơ ngũ ngôn bát cú Cung trung hành lạc kỳ 4, những chữ
khắc trên bia lại bố trí mỗi cột 8 chữ, một số chữ không giống như nguyên tác.
Ngoài ra , hai câu cuối của bài thơ bị cắt và thêm vào ý của người khắc. Nét chữ thư pháp của bài thơ
vẫn còn sắc nét chưa bị sửa đổi chứng tỏ sự sai lệch này là do ý đồ của người
khắc chứ không phải là ngẫu nhiên.
- Ở dòng thứ 4 cột đầu của bài
thơ khắc trên bình phong, chữ quy (䢜)bộ xước trên bia và chữ quy (歸) bộ chỉ trong nguyên tác cùng nghĩa
nhau.
- Ở dòng cuối của câu chứ 5(cột thứ 4 dòng
2 trên bình phong) sau chữ gian (间) lại thiếu chữ ngữ (語).
- Ở dòng đầu câu chứ 6 chữ kiều (嬌) trong nguyên
tác có nghĩa là người đẹp
còn trên bia chữ kiêu (驕) trên bia ( chữ
thứ 2 cột thứ 4) có
nghĩa là sự cao ngạo, mạnh mẽ không giống như ý tứ trong bài thơ.
- Phía sau chữ lai (來) ở câu 6 theo nguyên tác là trúc hạ ca (竹下歌), còn ở trên bình phong lại là bộc lục ca
(𣅃六歌).
- Hai câu 7 và 8 trong nguyên tác là Mạc giao minh nguyệt khứ, Lưu
trước túy Thường Nga (莫教明月去,留著醉嫦娥) được thay bằng 2 câu Bình sinh khách thỏa chí,tự cổ tiêu
thường nga(平生客妥志, 自古標嫦娥).
Lạc
khoản “Thư ư Thanh Phong Hiên” (書扵淸風軒)khắc ở cuối
bài thơ Cung trung hành lạc kỳ 4 có khả năng chữ Thanh Phong hiên chính là chiếc
chòi lá mà Thoại Ngọc Hầu đã nghỉ ngơi trong khi quan sát những người thợ xây
lăng của mình. Ngoài ra trên những tấm ảnh của người Pháp chụp mộ bà Châu thị Tế
và Thoại Ngọc Hầu vào khoảng năm 1920, chúng ta đã thấy những dòng chữ trên tấm
bình phong này rồi.
Điều này khiến
chúng ta đặt ra giả thuyết rằng người viết bài thơ này giao cho người thợ khắc
lên tấm bình phong. Do trình độ hiểu biết về Hán Nôm và thơ Đường bị hạn chế
nên người thợ khắc nhầm và thiếu một số chữ còn hai câu cuối khắc không giống
nguyên tác là do ý đồ của người khắc. Một khi chữ đã được khắc vào rồi thì
không thể nào sửa chữa lại được.
Để bảo tồn những
di tích không bị mai một theo thời gian đồng thời tạo điều kiện để các nhà
nghiên cứu tìm hiểu hai bài thơ trên tấm bình phong có những nét sai biệt so với
nguyên tác của Lý Bạch, chúng tôi có những ý kiến đóng góp như sau :
- Vẫn giữ nguyên hiện trạng cũ nhưng bên cạnh
hai bài thơ này phải có những chú thích và hiệu đính lại những chữ sai và thiếu
so với nguyên tác.
- Bên cạnh bảng chú thích và hiệu đính nên
có bản nguyên tác hai bài thơ của Lý Bạch
với bố cục theo thể ngũ ngôn bát cú để các nhà nghiên cứu tham khảo và đối chiếu
với những chữ trên bia.
Đây là một việc
làm mang tính thiết thực cùng với việc phục chế lại 2 bia Vĩnh Tế Sơn và Châu Đốc
Tân Lộ Kiều Lương. Nếu làm tốt công tác này cùng với việc đào tạo những người
thuyết minh về di tích bên trong lăng Thoại Ngọc Hầu sẽ thu hút nhiều du khách,
các nhà nghiên cứu đến tham quan tìm hiểu. Tránh tình trạng như hiện nay các
đoàn khách đến tham quan, vào đền thờ thắp nhang tưởng nhớ Thoại Ngọc Hầu rồi
ra về bởi vì không có người thuyết minh để giải đáp những thắc mắc của du khách về công lao của
Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất Nam Bộ. Đây cũng là cách giáo dục các thế hệ trẻ
tìm hiểu về lịch sử các danh nhân địa phương mà hiện nay trong chương trình lịch
sử trong các trường phổ thông còn đang bỏ ngỏ.
Lâm Thanh
Quang.
Chú thích :
(1) Vào
năm 1978-1885 phía bên trái lăng bị trưng dụng làm quán nhậu và bán nước giải
khát. Những người vô ý thức đi tiểu bên vách lăng nên nó bị xuống cấp nhanh
chóng. Trong đợt trùng tu vào năm 2010-2012 các nhà trùng tu phải dùng vôi tam hợp
bao gồm vôi cát, xi măng để thay thế ô dước, mật đường và cát như nguyên gốc.
(2) Chữ
蕭 trên nguyên tác có nghĩa là thê lương
còn chữ 嘯 trên bia có nghĩa
là tiếng huýt gió.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét