Trang

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

MÁY ĐẬP LÚA TRÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG






MÁY ĐẬP LÚA TRÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Chiếc máy tuốt lúa đầu tiên xuất hiện trên đồng bằng sông Cửu Long tại hội chợ Triển Lãm Nông Nghiệp tổ chức tại An Giang nhân dịp lễ “Người Cày Có Ruộng” 26 tháng 3 năm 1965. Chiếc máy này do I.R.I ( Viện nghiên cứu Lúa quốc Tế) thiết kế và được Nhật Bản chế tạo giới thiệu đến bà con nông dân. Kết cấu của máy này rất đơn giản bao gồm một trục bằng gỗ đặt trong một thùng cũng làm bằng gỗ. Trên trục có gắn những chiếc răng tuốt lúa là những thanh sắt hình trụ được uốn cong và gắn theo từng hàng dọc trục. Loại răng này những người thợ làm máy tuốt lúa gọi là răng nỏ. Máy được vận hành bằng cách đạp tương tự như máy may vốn phổ biến trong dân chúng. Một người vừa đạp vừa đưa lúa vào. Những chiếc răng bố trí trên trục quay sẽ tuốt những hạt lúa xuống thùng chứa ở bên dưới. Vì vậy nó được gọi là “ Máy tuốt lúa”.
Chiếc máy này thu hút được sự chú ý của những nông dân đến từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về đây tham gia hội chợ vì nó đã phá vỡ tập quán lâu đời của nông dân Việt Nam là đập và vê lúa bằng tay. Trong số những người quan tâm đến chiếc máy kỳ diệu này, có hai người nông dân mà về sau gắn bó cuộc đời mình với chiếc máy tuốt lúa : một người quê ở Vĩnh Long là một người ở An Giang tên Đặng văn Khoái mà sau này nổi tiếng với thương hiệu “ Máy tuốt lúa Ba Khoái”.
Mặc dầu không nói ra nhưng trong đầu hai người đã hình thành một ý nghĩ  là làm thế nào đưa cơ giới hóa vào để thay thế sức người và nâng cao năng suất của máy. Thế là chiếc máy tuốt lúa đầu tiên của đồng bằng sông Cửu Long ra đời tại An Giang với chiếc “máy tuốt lúa Ba Khoái” và hơn một năm sau chiếc máy tương tự xuất hiện ở Vĩnh Long  mang tên   “ Cơ Khí Vĩnh Long”.


Hình 1 : Mô hình trục tuốt lúa đầu tiên.

Việc cải tiến từ chiếc máy tuốt lúa đầu tiên sang dạng máy đập lúa như hiện nay trãi qua nhiều giai đoạn. Nhìn chung có thể chia ra làm 4 giai đoạn chính như sau :
- Giai đoạn 1 : Cải tạo trục quay máy tuốt lúa và bàn gằn lúa.
- Giai đoạn 2 : Chuyển từ dạng tuốt lúa sang dạng đập lúa.
- Giai đọan 3 : Chuyển từ dạng đẩy sang dạng tự hành.
- Giai đoạn 4 : Cải tiến hệ thống sàng lọc và nhận lúa.
Trong  các giai đoạn chính trên bao gồm các cải tiến nhỏ trong giai đoạn đó ; có lúc thành công, có lúc thất bại phải chuyển sang phương án khác. Nói chung, công trình này ngoài người khởi xướng ra là bác Ba Khoái ở An Giang còn có sự đóng góp rất nhiều của những người nông dân, những người thợ không qua trường lớp mà học hỏi từ thực tế. Chính từ những vốn sống này mà máy tuốt lúa ban đầu trở thành máy đập lúa tương đối hoàn chỉnh như hiện nay.

I. CẢI TẠO TRỤC QUAY MÁY TUỐT LÚA VÀ BÀN GẰN LÚA (1968-1974) :

 Cải tạo đầu tiên của máy tuốt lúa là dùng động cơ nổ Kholer 4HP rất phổ biến trong người dân lúc đó để làm cơ cấu truyền lực thay  thế sức người. Động cơ được lắp trên một nền bằng cây và truyền động tới trục quay của máy tuốt lúa bằng sợi cu-roa. Máy này chỉ là dạng tuốt lúa chứ không phải là đập lúa như hiện nay vì người sử dụng vẫn phải cầm từng bó lúa đưa vào cho máy ăn còn trục quay thì được truyền động do máy. Năng suất của máy mỗi ngày chỉ  được chừng 3 đến 5 công (mỗi công tầm cắt là1.000m²).Trục quay và thùng suốt được làm bằng gỗ còn hệ thống bàn gằn vẫn chưa hình thành. Những hạt lúa sau khi rơi xuống thùng chưa được phân loại phải vê lại bằng tay còn  những hạt còn sót lại trên rơm sẽ được những người khác xốc và giủ lại cho sạch.
Điều này làm trăn trở người nông dân Ba Khoái. Sau nhiều lần mài mò chế tạo thử, chiếc máy tuốt lúa thứ hai ra đời vào năm 1969. Máy tuốt lúa này vẫn là dạng máy trục ngang. Trên trục mang những răng làm bằng những thanh sắt dẹp có thể điều chỉnh được. Hạt lúa trước khi rơi xuống thùng sẽ qua một hệ thống gằn. Hệ thống này sẽ phân loại những hạt lúa chắc, lúa lép và rơm rạ dính theo. Hạt lúa chắc được rơi xuống thùng còn những hạt lép và rơm sẽ được một quạt gió hút ra ngoài. Điều này giúp giảm bớt công đoạn vê lúa và tăng năng suất tuốt lúa từ 3 công/ngày lên 10 công/ngày. Động cơ kéo tăng từ 4 HP lên 9 HP ( BS9) hoặc Yanmar F10 vì lúc này động cơ phải truyền động luôn cho hệ thống gằn. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn một số khuyết điểm : lúa sau khi gặt xong phải được gom thành từng bó theo thứ tự ngọn và gốc, sau khi tuốt xong vẫn còn những hạt lúa dính theo rơm. Do đó cần phải có một số người theo máy làm nhiệm vụ xốc rơm và giủ sạch những hạt lúa này để tránh thất thoát lúa.Từ những khó khăn trong thực tế này giúp cho bác Ba Khoái có những ý nghĩ sáng tạo mang tính đột phá : người tuốt lúa không cần phải cầm từng bó đưa vào máy tuốt và chỉ cần dồn đại vào trong thùng. Hệ thống trục quay và bàn gằn sẽ tự tuốt và phân loại lúa, còn rơm sau khi tuốt xong sẽ được phóng ra xa. Thế là máy đập lúa một trục dọc đầu tiên ra đời vào năm 1974 mang tên “Ba Khoái” được nông dân hoan nghinh thay thế cho chiếc máy tuốt lúa đã đi vào dĩ vãng.
II. CHUYỂN TỪ MÁY TUỐT LÚA SANG MÁY ĐẬP LÚA ( 1974-1983) : 
Khác biệt giữa máy tuốt lúa và máy đập lúa là trục quay từ dạng nằm ngang chuyển sang dạng xuôi, lúa không cần phải sắp theo thứ tự đầu và gốc và kết cấu từ gỗ chuyển sang kim loại để tăng độ bền và năng suất. Đầu tiên, do không đủ điều kiện chế tạo trục quay có đường kính lớn nên ông dùng ống  có đường kính khoảng 160mm làm trục quay. Những chiếc răng dài bằng sắt dẹp được gắn xung quanh trục theo hình xoắn ốc. Người tuốt lúa cho lúa vào một lỗ ở một đầu, những bó lúa sau khi đưa vào sẽ được cuốn xung quanh trục theo hình xoắn ốc và bị các răng trên tuốt các hạt lúa. Ngoài ra do lực ly tâm nên những bó lúa trên sẽ bị va đập vào thành thùng. Chính lực va đập này sẽ làm cho những hạt lúa còn sót lại rơi qua lưới và rớt xuống bàn gằn đặt ở phía dưới thùng. Còn rơm ở cuối hành trình sẽ được phóng ra xa bằng một lỗ thoát đặt nghiêng 45° so với mặt phẵng ngang. Năng suất máy tăng từ 15 công/ ngày lên 30 công / ngày. Hệ thống bàn gằn vẫn không thay đổi so với trước đây nghĩa là dùng bàn gằn ngang và quạt hút. Hệ thống này vẫn còn một khuyết điểm là thường bị rơm quấn trên trục làm quá tải và làm tắt động cơ nhất là đối với loại lúa sạ mùa nước có thân dài.
Để khắc phục khuyết điểm trên, ông nghĩ cách dùng hai chai gió đá cắt đầu nối lại với nhau tạo thành một trục quay có đường kính khoảng 0.25 mét. Các răng được sắp theo hình 5 dãy thẳng và có thể thay đổi góc độ để điều chỉnh cho từng loại lúa. Hệ thống bàn gằn cũng được cải tạo lại thành gằn xuôi và dùng quạt thổi để tách rời các hạt lúa lép và bông cỏ ra khỏi những hạt lúa tốt. Rơm sau khi ra khỏi ống phóng đã được giủ sạch các hạt lúa và năng suất của máy tăng lên gấp 1,5 lần. Đây là một cải tiến quan trọng vì nó thỏa mãn được 3 yếu tố cơ bản : không cần sắp lúa theo thứ tự, lúa được phân loại chính xác và rơm được giủ sạch hạt trước khi được phóng ra xa. Trục quay được năng lên từ 0,25 đến 0,35 mét và sử dụng  2 chai ga nối đầu thay vì chai gió đá.
 

Hình 2 : Gia đình bác Ba Khoái bên trục đập lúa đầu tiên.

Quá vui mừng trước sự thành công này, nhiều nơi cải tiến máy đập lúa từ 1 trục sang 2 trục rồi 3 trục. Năng suất tuy có tăng nhưng hiệu quả lại không cao vì phải dùng động cơ có công suất lớn ( từ 15HP đến 20HP) để kéo làm mất đi tính cơ động của máy đập lúa là phải di chuyển thường xuyên trên đồng ruộng có nhiều sình lầy và các bờ bao. Vì vậy, họ đành quay lại với phương án một trục quay. Tùy theo điều kiện và tình hình từng vùng mà chiều dài trục quay thay đổi từ 1,6 mét đến hơn 2,5 mét. Răng tuốt được bố trí thành 3 dây xoắn thay vì 5 dây thẳng như lúc đầu. Giai đoạn này được xem là giai đoạn chính  mang tính đột phá trong quá trình hình thành máy đập lúa. Chiếc máy đập lúa “Ba Khoái” đời thứ hai này được phổ biến trên khắp đồng bằng sông Cửu Long và một nghề mới vừa được hình thành : nghề “ đập lúa mướn” tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động vào cuối vụ mùa. Mỗi nhóm khoảng 4,5 người với một máy đập lúa đi khắp nơi trong vòng 3 tháng có thể dủ nuôi sống cho cả gia đình cả năm.
Máy đập lúa thương hiệu “ Ba Khoái” không những đến với nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long mà còn xuất khẩu sang nước bạn Campuchia đến tận biên giới Thái lan.
Xí Nghiệp Cơ Khí tỉnh An Giang với những điều kiện thiết bị của mình đã thành công trong việc cuốn trục quay của máy đập lúa bằng tôl tấm giúp người thợ không cần phải dùng chai ga càng ngày càng hiếm trước nhu cầu tăng cao. Xí nghiệp cũng đã giới thiệu sản phẩm của mình đến các tỉnh ở miền Bắc và được mọi người ưa chuộng. Những mẫu máy đập lúa do xí nghiệp Cơ Khí An Giang sản xuất này xuất phát từ mô hình máy đập lúa một trục của bác Ba Khoái với một số cải tiến như cách bố trí răng, đường kính và chiều dài trục………
Phong trào sản xuất máy đập lúa từ chiếc máy thế hệ thứ hai của bác Ba Khoái lan rộng ra các huyện thị trong tỉnh An Giang và lan sang các tỉnh bạn như Đồng Tháp, Vĩnh Long, Minh Hải…..


Hình 3 : Chiếc máy đập lúa  Ba Khoái tại cuộc hội thi

Trong cuộc hội thi giữa các nhà chế tạo máy tuốt lúa tổ chức vào năm 1981, máy đập lúa của bác Ba Khoái hơn hẳn các nơi khác như Vĩnh Long, Đồng Tháp, Minh Hải….. về các tính năng như năng suất, độ sạch của lúa và mức thất thoát lúa…..Để khen thưởng sáng kiến của ông, năm 1983 Tổng Công Đoàn VN đã trao tặng ông bằng khen và một số phần thưởng. Dầu mang tính tượng trưng nhưng nó cũng đã góp phần động viên ông tiếp tục nghiên cứu cải tiến máy đập lúa ngày càng được tốt hơn để không phụ lòng kỳ vọng của nông dân  và công cuộc cơ giới hóa nông nghiệp của đất nước bắt đầu vào thời kỳ đổi mới.( Phần thưởng chỉ là một bằng khen và một đồng hồ để bàn của Liên Xô sản xuất giá chỉ khoảng hơn 10 đồng vào thời điểm 1983 )



Hình 4 : Bác Ba Khoái được trao tặng bằng khen.

















Hình 5 : Bằng khen lao động sáng  tạo do TCĐ VN tặng bác Ba Khoái năm 1983.
 III.CHUYỂN TỪ DẠNG ĐẨY SANG DẠNG TỰ HÀNH :(1983-1998)

Một yêu cầu không kém phần quan trọng khác là máy đập lúa phải có tính cơ động. Nghĩa là nó phải tự di chuyển trên  đường lộ cũng như trên đồng ruộng, vượt qua các bờ bao. Ý nghĩ đầu tiên của bác Ba Khoái là sử dụng khung gầm từ các xe 4 bánh nhỏ được các cơ quan nhà nước thanh lý vì đã quá hạn sử dụng. Thế nhưng loại khung gầm này không thích hợp với máy đập lúa vì nó có bề ngang quá rộng. Sau nhiều đêm suy nghĩ ông tự thiết kế khung gầm riêng cho máy đập lúa, chỉ sử dụng giàn cầu và mâm bánh từ máy xe hơi. Thế là một loại xe mới chưa từng có trong lịch sử ngành xe hơi ra đời : “Máy đập lúa tự hành” có thể di chuyển trên đường lộ  lẫn đường đồng. Mặc dầu tốc độ không cao bằng xe hơi nhưng nó đã góp phần đưa máy đập lúa đi khắp nơi trên khắp đồng bằng sông Cửu Long. Nó cũng có thể được sử dụng để mang lúa từ đồng ruộng về nhà bằng những giá đỡ dọc theo hai bên hông. Từ một chiếc máy đập lúa chuyên dùng nó trở thành một công cụ đa năng giúp cho nhà nông vượt qua mọi khó khăn trong việc thu hoạch lúa.
Lúc đầu hệ thống tự hành chỉ sử dụng một cầu. Điều này thật bất tiện khi lên xuống xuồng để đến nơi làm việc vì với chiều cao quá mức nếu người lái điều khiển không  khéo léo nó sẽ dễ dàng bị lật nhất là khi qua những đường bờ bao. Ngoài ra khi gặp đường ruộng nhiều sình lầy, nó có thể bị lún và không thể chạy được. Để khắc phục hiện tượng này, các nhà chế tạo máy đập lúa cải tiến hệ thống tự hành từ một cầu sang hai cầu tương tự như xe Jeep dùng trong quân đội của Mỹ ở miền Nam. Nhờ vậy mà máy đập lúa có thể di chuyển khắp nơi trên mọi địa hình.
Trong giai đoạn này mọi sáng kiến cải tiến đều tập trung vào việc cải tiến răng trên trục cho phù hợp với nhiều loại lúa và hoàn chỉnh hệ thống tự hành.Thùng đập cũng được cải tiến từ dạng hai hông thẳng sang dạng bầu tròn.


Hình 6 : Máy đập lúa “ Ba Khoái” di chuyển trên sông.
IV.CẢI TIẾN HỆ THỐNG SÀNG LỌC VÀ NHẬN LÚA (1998-2003)

Trước đây, lúa sau khi qua hệ thống gằn và vê xong, người vận hành máy đập lúa phải hứng lúa bằng thúng vê, sau đó mới đổ vào bao. Việc này đòi hỏi hai nhân công, một người cầm miệng bao hứng lúa còn một người bưng lúa đổ vào. Để giảm số người trên chỉ còn một người, một sáng kiến mới được ứng dụng vào thực tế : chế tạo thêm bộ phận  đưa lúa ra ngoài. Người vận hành chỉ cần kê miệng bao vào máng đưa lúa ra để hứng lấy lúa.
Sáng kiến này được áp dụng từ mô hình các máy xay lúa lưu động rất phổ biến ở nông thôn. Đầu tiên, các nhà sản xuất máy đập lúa dùng hệ thống “bồ đài” ( loại băng tải có mang gàu xúc ) để đưa lúa từ buồng chứa ra ngoài. Tuy nhiên, hệ thống này rất cồng kềnh nên không phát huy được tác dụng. Không chịu lùi bước, nhà sản xuất chuyển sang dùng loại vít tải tương tự như cối xay cà phê. Sáng kiến này tỏ ra rất hiệu quả và nhanh chóng được ứng dụng vào máy đập lúa.
Từ lúc bắt đầu hình thành đến nay, máy đập lúa đã trãi qua nhiều giai dọan thăng trầm. “ Cái khó ló cái khôn”, chính từ thực tế mà những người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long mà điển hình là bác Ba Khoái đã dùng khối óc và con tim của mình để cải tạo chiếc máy tuốt lúa đơn giản đầu tiên trở thành chiếc máy đập lúa tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Khi Bác đã già thì người con là anh Bảy Luận cũng nối bước theo người cha gắn liền cuộc đời mình với chiếc máy đập lúa mang tên “Bảy Luận”. Máy đập lúa hiện nay không những chỉ đập được lúa mà còn có thể tách được hạt của các loại nông sản khác như đậu nành, mè và các hạt rau muống.
Các máy đập lúa do Thái Lan sản xuất bắt chước từ máy đập lúa của Việt Nam xuất hiện trên thị trường Campuchia nhưng về tính năng không thể sánh bằng máy đập lúa của Việt Nam. Giá thành của nó cũng cao hơn nên người dân Campuchia thích sử dụng máy đập lúa của Việt nam hơn nhất là máy đập lúa mang thương hiệu “ Bảy Luận” do người con thứ bảy của bác Ba Khoái chế tạo.


 Hình 7 : Bác Ba Khoái lúc chụp năm 74 tuổi ( hiện nay ông đã hơn 80 tuổi ) 
nhưng vẫn còn tráng kiện.


Hình 8 : Bác Ba Khoái và anh Bảy Luận :
                                    Hai thế hệ tiếp nối nhau gắn bó với máy đập lúa.            
Mong muốn của những người chế tạo máy đập lúa ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Việt Nam nói chung là nhà nước mình nên tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về máy đập lúa. Trong đó các nhà chế tạo máy đập lúa có dịp ngồi lại với nhau để trao đổi những kinh nghiệm trong quá trình cải tạo máy đập lúa đồng thời cùng nhau bảo vệ thương hiệu máy đập lúa của Việt Nam. Nếu đăng ký thương hiệu “ Máy đập lúa Việt Nam” với quốc tế chúng ta tránh trường hợp bị cướp bản quyền như trong vụ kiện tụng tranh chấp bản quyền của “ võng xếp Duy Lợi” tại Nhật Bản. Trong đó nhà sáng chế phải mất nhiều thời gian và tiền bạc mới giành lại được quyền bảo hộ bản quyền cho mình, nhất là trong giai đoạn như hiện nay Việt Nam sắp sửa hòa nhập nào AFTA và WTO. Đây là việc chúng ta cần nên làm để động viên các nhà “trí thức chân đất” đóng góp kinh nghiệm và năng lực của mình vào công cuộc đổi mới đất nước từ nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn tiến tới một nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại.
 LÂM THANH QUANG
 Ghi chú : Bài viết này cách nay gần 10 năm. Hiện  nay người nông dân   đã chuyển sang sử dụng máy gặt đập liên hợp. Buồn thay những sáng kiến phát minh này do người nông dân ít học làm nên còn các vị “Tiến sĩ bàn giấy” thì đứng ngoài cuộc chơi này.

                    



5 nhận xét:

  1. Có một giai thoại về sự ra đời của máy đập lúa mang tên Ba Khoái này. Khi ông nghiên cứu và sản xuất đại trà máy đập lúa dạng phóng , bộ Nông nghiệp thời đó đưa nhiều tay kỹ sư cơ khí nông nghiệp đến " ăn dầm nằm dề " tại nhà của ông để vẽ lại bản thiết kế máy đập lúa này. Lúc đó vấn đề bảo hộ bản quyền chưa được đặt ra và cơ sở của ông là dạng sản xuất kiểu gia đình trong thời kỳ bao cấp nên ông nào dám hó hé điều gì bởi vì nếu phản đối thì sẽ bị chụp mũ là tư sản. Vẽ xong bản thiết kế họ hí hửng mang về miền Bắc sản xuất đại trà cho các hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó. Kết quả là bị nông dân chê quá trời bởi vì lúa còn sót quá nhiều. Mặt của các kỹ sư này méo xẹo không biết vì sao mà sử dụng ở miền Nam được nhưng đem ra Bắc lại không xài được. Lô hàng máy đập lúa đó đành phải bán ve chai và được các xí nghiệp cơ khí ở miền Nam mua về cải tiến lại.Các kỹ sư đó đâu có ngờ rằng trên trục máy đập lúa là có một chiếc răng đặc biệt gọi là răng khôn chỉ được hàn sau khi bán cho nông dân và thử nghiệm thực tế ngoài đồng . Chiếc răng này có nhiệm vụ giữ lúa lại trong một thời gian ngắn đủ để tuốt sạch lúa. Vì vậy rơm sau khi được phóng ra sẽ không còn hạt lúa đi theo. Bài học kinh nghiệm trên cho thấy các kỹ sư, Tiến sĩ bàn giấy chỉ ăn cắp được bản vẽ thiết kế chứ không ăn cắp được chất xám trong đầu của người nông dân.

    Trả lờiXóa
  2. Năm 1985 khi nước Việt Nam bắt đầu mở cửa quan hệ với thế giới bên ngoài ; tại Hội chợ triễn lãm Quang Trung TP HCM, Nhật Bản đem sang Việt Nam dự triễn lãm máy tuốt lúa với kiểu dáng tương tự như kiểu năm 1972. Do thiếu thông tin nên họ nghĩ rằng ngành cơ giới hóa nông nghiệp Việt Nam còn lạc hậu. Họ đâu biết rằng mặc dầu trong điều kiện kinh tế khó khăn nhưng ngành cơ giới hóa nông nghiệp đã có một bước tiến khá xa. Công đầu là từ người nông dân ít học chứ không phải là các"Tiến sĩ bàn giấy". Nông dân miền Nam khi xem mẫu máy tuốt lúa này trong bụng cười thầm bởi vì nó thua xa máy do họ chế tạo từ kinh nghiệm thực tiển. Tuyy nhiên chỉ vài năm sau người Nhật đã có máy gặt xếp dãy tại các nước Đông Nam Á và máy gặt đập liên hợp cũng tràn ngập thị trường Việt Nam trong khi việc cơ giới hóa tại Việt Nam bắt đầu dừng lại bởi vì thiếu sự quan tâm và hỗ trợ của nhà nước. Một số công ty cơ khí ở VN lại có bước tính toán sai lầm là hợp tác cùng với các công ty TQ để chế tạo máy gặt đập liên hợp. Từ những bản vẽ ban đầu này họ bắt đầu dòm ngó đến thị trường Việt Nam và hậu quả là vài năm sau các máy gặt đập liên hợp của TQ bắt đầu chiếm lĩnh thị trường của nước ta. Tuy nhiên người dân Việt Nam vẫn thích máy gặt đập liên hợp nội địa vì nó thích hợp với đồng ruộng Việt Nam hơn. Các máy này chỉ mắc phải khuyết điểm là khó kiếm phụ tùng do sản xuất nhỏ lẻ. Vấn đề quan trọng nhất là nhà nước phải có một tiêu chuẩn thống nhất cho các máy gặt đập liên hợp của Việt Nam để có thể sản xuất hàng loạt và hạ giá thành sản phẩm. Đây cũng là nguyện vọng thực tề của người nông dân đối với nhà nước chứ không phải là những lời húa suông và " Hãy đợi đấy"

    Trả lờiXóa
  3. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  4. Khoảng năm 1980 khi các đoàn chuyên gia Ba Lan qua Việt Nam để nghiên cứu tình hình phát triển nông nghiệp tại đây, họ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy máy đập lúa dạng phóng của bác Ba Khoái. Lúc đầu họ nghĩ rằng chiếc máy này ít ra cũng được tập thể các kỹ sư nông nghiệp và viện nghiên cứu chế tạo. Khi được biết chiếc máy này do một người nông dân mà trình độ văn hóa chỉ hết lớp 3 trường làng chế tạo thì họ giật mình và khâm phục khả năng sáng tạo của nông dân Việt Nam. Họ nói rằng với bằng sáng chế này nếu là ở nước ngoài người sáng chế sẽ xin bảo hộ bản quyền và có thể sống sung túc cả đời. Năm 2004 khi GS Võ Tòng Xuân nghĩ đến việc bảo hộ bản quyền cho máy đập lúa này nhưng các luật gia cho biết máy đập lúa này đã hết thời hạn bảo hộ bản quyền và trở thành phổ biến trên thị trường rồi nên không thể xin bảo hộ bản quyền được. Đây cũng là điều thiệt thòi cho các nhà sáng chế chân đất ít am hiểu về pháp luật. Tuy nhiên họ cũng được một chút an ủi là các phát minh của mình được người dân ủng hộ vì có ích lợi thiết thực cho đời sống người dân hơn là những " Kỹ sư, Tiến sĩ bàn giấy" hưởng lương từ tiền thuế của người dân nhưng không có những sáng kiến, phát minh nào giúp ích cho những người è cổ ra đóng thuế để nuôi mình.

    Trả lờiXóa
  5. Mấy ngày trước ghé thăm bác Ba Khoái thì mới hay bác đã mất cách nay hơn 6 năm rồi. Người con trai là Bảy Luận cũng cũng đã chuyển sang nghề khác. Thôi thì máy đập lúa mang tên Ba Khoái cũng đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử của nó rồi. Tiếc là ngoài bằng khen của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và phần thưởng là một đồng hồ để bàn của Liên Xô trị giá hơn 10 đồng thời bấy giờ, bác không hề hưởng một chế độ nào cả. Thật tiếc cho một nhân tài " Sinh bất phùng thời" .

    Trả lờiXóa