NGUYỄN CÔNG NHÀN VÀ VIỆC ĐÀO KINH VĨNH AN HÀ.
Mặc dầu ít được
nhiều người biết đến so với kinh Thoại Hà nối từ Long Xuyên đến Rạch Giá được
đào vào năm 1818 và kinh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc với Giang Thành (Hà Tiên) được đào vào năm 1819-1824 do Thoại Ngọc Hầu Nguyễn
văn Thoại chỉ huy với sự hỗ trợ của Tuyên Trung Hầu Nguyễn văn Tuyên và Điều
Bát Nguyễn văn Tồn … ; kinh Vĩnh-An-Hà nối liền Tân Châu với Châu Đốc cũng là
một tuyến kinh quan trọng về mặt quân sự và kinh tế đối với An Giang. Tên gọi
đầu tiên của kinh này là Vĩnh-An- Hà là do người dân 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang
và Hà Tiên cùng góp sức với nhau để đào dưới sự chỉ
huy của Tuần phủ Vĩnh Long Nguyễn Tri Phương và Đốc bộ Châu Đốc Nguyễn Công
Nhàn. Kinh này còn có tên là Long An Hà và cuối cùng là Tân Châu Hà dưới đời Tự
Đức. Đối với người dân vùng Tân Châu, Châu Đốc, nó được gọi bằng tên dân gian
là “Kinh Cũ” để phân biệt với kinh Xáng mới do người Pháp đào sau đó vào năm
1914-1918.
Nền nhà ngay tại đầu vàm kinh Vĩnh An Hà bị sạt lở vào cuối thập kỷ 90 thế kỷ 20.
Việc
dời Tân Châu Đạo từ Cù Lao Giêng, Chợ Mới về vùng Long Sơn, Tân Châu trên sông
Tiền vào năm 1818 khiến cho việc liên lạc giữa Tân Châu Đạo tại Long Sơn và
Châu Đốc Đạo (thành Châu Đốc) ở ngả ba sông Hậu trở nên khó khăn. Mỗi khi có
giặc đánh, việc tiếp ứng chậm trể vì từ Tân Châu phải vòng qua sông Vàm Nao mới
đến được thành Châu Đốc còn từ thành Gia Định đưa quân vào tiếp cứu chỉ có con
đường độc đạo qua sông Vàm Nao rất dễ bị quân địch phục kích tại đây. Là người
nắm rõ tình hình thực tế tại địa phương, Đốc Bộ Nguyễn Công Nhàn đề xuất lên
vua Thiệu Trị xin cho đào một con kinh nối liền từ Tân Châu đến Châu Đốc. Việc
đào kinh này được khởi công vào tháng 10 năm Thiệu Trị thứ ba ( 1843) và hoàn
tất vào cuối tháng 4 năm Thiệu Trị thứ năm ( 1845) . Số lượng nhân công được huy
động trong việc đào kinh này hơn 3000 người từ các tỉnh Vĩnh Long, An Giang và
Hà Tiên dưới sự chỉ huy của Tuần phủ Vĩnh Long Nguyễn Tri Phương và Đốc bộ An
Giang Nguyễn Công Nhàn. Kinh này có chiều dài khoảng 17 km, bề mặt trên rộng 30
m, bề mặt dưới rộng 15m và sâu 6 m (2).Để kỷ niệm việc đào kinh Vĩnh An Hà này,
Nguyễn Công Nhàn cho khắc một tấm bia bằng chữ Hán có ghi “ VĨNH AN HÀ- THIỆU TRỊ ĐỆ NGŨ- KIẾT
NHẬT TẠO” đặt ở phía bên tả ngạn đầu kinh (3). Tiếc rằng sau này do đầu vàm
kinh bị lở nên bia này rơi xuống sông không tìm được tung tích.
Mặc
dầu về mức độ quy mô và tầm vóc chiến lược không bằng kinh Vĩnh Tế nhưng kinh
Vĩnh An Hà cũng giữ một vai trò quan trọng về mặt quân sự cũng như kinh tế đối
với miền Tây Nam Bộ.
1.Về mặt quân sự
: tạo một con đường thủy thứ 2 nối liền từ sông Tiền đến sông Hậu mà không cần
phải đi qua sông Vàm Nao. Khi chiến tranh xãy ra thì từ Tân Châu có thể vận
chuyển quân lương theo kinh này đến sông Hậu rồi qua kinh Vĩnh Tế để tiếp ứng cho
Hà Tiên. Việc phòng thủ biên cương và bảo vệ chủ quyền ở biên giới Tây Nam Bộ
sẽ hiệu quả hơn so với lúc trước.
2. Về mặt kinh
tế : nhờ kinh Vĩnh An Hà mà vùng đất hoang vu ở những cánh đồng Long Phú, Phú Vĩnh, Châu Phong….thuộc vùng đất Tân Châu
xưa được dòng kinh mang nước ngọt, phù sa bồi đắp trở nên phì nhiêu. Vào những
mùa nước lớn, tôm cá các loại vào đồng ruộng để sinh sôi nẩy nở đề rồi khi nước
rút, chúng trở lại sông lớn ( sông Tiền và sông Hậu) góp phần bảo vệ nguồn lợi
thủy sản thiên nhiên, môi trường, nuôi sống những cư dân Việt và Chăm ở dọc
theo 2 bờ kinh. Khi tuyến đường bộ Tân Châu- Châu đốc chưa được khai thông, đây
là tuyến đường thủy nối liền Tân Châu với Châu Đốc.
Rất
tiếc, do việc gấp rút đào kinh phục vụ cho việc vận chuyển quân lương , việc
nghiên cứu địa hình chưa kỹ lưỡng nên vấp phải một số sai sót hạn chế chức năng
của kinh Vĩnh An Hà. Nơi đầu kinh thông với sông Hậu tại ấp Phủm Xoài thuộc xã Châu Phong nhằm ngay chỗ
giáp nước, dòng nước chảy rất yếu nên lâu ngày bị phù sa bồi lắng khiến lòng
kinh cạn dần, chỉ lưu thông được vào mùa nước lớn.
Vào
thời gian thế chiến thứ nhất ( 1914-1918) người Pháp cho đào một con kinh xáng
có tên gọi là “Kinh mới” hay “ Kinh xáng
Tân Châu” thuộc xã Tân An, băng qua xã Vĩnh Hậu dài hơn 9km, bề rộng 25m lúc
mới đào nhằm đưa nước sông Tiền về sông Hậu và trở thành tuyến đường thủy chính
nối liền Tân Châu- Châu Đốc , thay thế kinh Vĩnh An Hà đã bị bồi lắng không thể
lưu thông bằng đường thủy được. Hiện nay do nước chảy mạnh nên bề rộng của kinh này lên đến 100m.
Để
nhớ ơn người đã khai sinh ra kinh Vĩnh
An Hà, người dân Tân Châu lấy tên Nguyễn Công Nhàn đặt cho con đường bên hữu
ngạn bờ kinh và tên Nguyễn tri Phương đặt cho con đường bên tả ngạn.
Vào
cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, đầu vàm kinh Vĩnh An Hà nối với sông Tiền bị
sụp lở nghiêm trọng. Phố sá và ngôi chợ cũ ở gần bờ sông phải di dời đến địa
điểm mới phía bên trong. Các nền nhà cũ
chỉ còn trơ ra những cột móng giữa nền trời xanh.
Ngày
10 tháng 8 năm 2009, chính quyền thị xã Tân Châu chính thức tiến hành việc động
thổ và khởi công công trình san lấp kinh Vĩnh An Hà với chiều dài khoảng hơn
2km bắt đầu từ đầu vàm kinh nối với sông Tiền đến bệnh viện Đa Khoa Tân Châu và
hình thành tuyến dân cư dọc theo hai bên bờ kinh. Phần còn lại thông với sông Hậu
không nhận được nước từ sông Tiền nên trở thành con kinh cụt bị bồi lắng. Sau
164 năm tồn tại, kinh Vĩnh An Hà chỉ còn là hoài niệm trong lòng người dân.
Người
dân vùng Tân Châu, Châu Đốc chỉ biết được Nguyễn Công Nhàn là người có công rất
lớn trong việc đào kinh Vĩnh An Hà chứ ít ai nắm rõ tiểu sử của ông bởi vì còn
nhiều vấn đề nghi vấn chưa giải mã hết được.
Nghi vấn thứ nhất là khi đào kinh Vĩnh An Hà chức vụ của ông là
Tổng Đốc An Hà hay là Đốc Bộ An Giang ? Theo Đại Nam Thực Lục chính biên, ông
được phong làm Tổng Đốc An Hà vào năm 1842 . Ngoài ra, nhà vua còn cho phép ông được đề chữ
"Hùng Dõng tướng" trước họ tên mỗi khi viết công văn hay tấu sớ. Với chức năng này ông mới có đủ thẩm quyền đề xuất lên vua
Thiệu Trị xin đào kinh Vĩnh An Hà. Đến năm 1844 ông bị tố là nhận hối lộ nên bị
giáng xuống 4 cấp. Như vậy từ chức Tổng Đốc An Hà ông bị giáng xuống làm Đốc Bộ
trong lúc việc đào kinh Vĩnh An Hà đang tiến hành. Trong năm này, do vu cáo Nguyễn Công Trứ mua riêng đậu
khấu và sừng tê khiến ông bị cách hết chức tước và làm việc dưới quyền của Tôn
Thất Bá. Như vậy ông chỉ tham gia việc đào kinh Vĩnh An Hà trong giai đoạn đầu
còn giai đoạn sau vì bị tội nên không thể tham gia được.
Đến năm 1847
việc Chân Lạp đã tạm lắng yên. Xét công, nhà vua phong cho ông tước Trí
Thắng nam, được trả lại thẻ bài "Hùng Dõng tướng" và được khắc
tên vào cổ súng Thần uy phục viễn (cổ thứ tư). Sau đó, ông được cử làm
Lãnh binh Bình
Định.
Năm
Tự
Đức
thứ 9 (1856), Nguyễn Công
Nhàn được thăng Chưởng vệ, lãnh chức Tuần phủ Hà Tiên, kiêm Bố chính
sứ.
Đầu
năm 1859, quân Pháp hãm thành Gia Định, Tổng thống quân vụ là Tôn Thất Hiệp xin cho ông làm
Đề đốc quân vụ để cùng chống ngăn quân xâm lược. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định
thất thủ. Tháng 7,Nguyễn Công Nhàn được bổ làm Hộ lý An Giang, rồi Tổng đốc Định Tường.
Nghi
vấn thứ hai là khi ông nhận chức Tổng Đốc Định Tường , chưa đến nơi thì thành
Mỹ Tho đã rơi vào tay giặc Pháp. Ông phải thu thập quân binh về cố thủ ở Kiến
Đăng chứ không phải là như lời tuần phủ Nguyễn Hữu Thành vu cho tội bỏ thành
chạy, bị người đời lên án là hèn nhát như bài thơ của Học Lạc.
Có quan hùng
dũng Nguyễn Công Nhàn,
Hùng dũng nhưng
mà lại nhát gan.
Giặc tới Bến
Tranh run lập cập,
Tàu vô Cửa Tiểu
chạy bò càng.
Mưu thần trước
biết ngang sông chắn,
Kế giữ sau toan
đóng củi hàng.
Thất thủ muốn
liều cho giữ tiết,
Việc ông bị vua
Tự Đức cách hết chức tước là để che mắt quân Pháp vì lúc đó triều đình nhà
Nguyễn đang cử Phan Thanh Giản sang Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam
Bộ.
Tháng Giêng năm
Tự Đức thứ 15 (1862), vua sai Đốc binh Nguyễn Công Nhàn làm Thương biện quân vụ
Vĩnh Yên. Công Nhàn không tuân lệnh mà ở lại tiếp tục chiêu tập nghĩa dõng
chống Pháp. Qua sự việc trên chúng ta thấy rõ rằng Nguyễn Công Nhàn không phải
là người nhát gan, bỏ thành chạy trốn.
Theo lời truyền
tụng trong dân gian vùng Long Hưng (Nước Xoáy) thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp
Vò tỉnh Đồng Tháp. Hùng Dõng tướng quân Nguyễn Công Nhàn sau khi Định Tường
thất thủ đã rút quân doanh về đây lập tổng hành dinh, chiêu tập nghĩa dõng để
chống Pháp. Hiện nơi nầy còn địa danh Rạch Dinh là nơi ghe Ô, ghe Sa của ông
thường ra vào nơi Tổng hành dinh. Nơi đây hiện còn ngôi mộ Hùng Dõng Đại tướng
quân và các quan quân hầu cận trên địa phận ấp Hưng Thành Tây.
Trong buổi hội
thảo về danh nhân Thoại Ngọc Hầu tại An Giang năm 2009 , nhà sử học Dương Trung
Quốc đã phát biểu : “ Để đánh giá đúng đắn một nhân vật lịch sử, phải đặt mình
vào hoàn cảnh xã hội của thời đó. Cần phải xem xét những mặt tích cực lẫn tiêu
cực của người đó. Không nên phóng đại quá mức những mặt tích cực mà quên đi
những mặt tiêu cực và ngược lại. Như vậy mới có một cái nhìn khách quan và đánh
giá chính xác về nhân vật đó”. Trường
hợp Nguyễn Công Nhàn cũng vậy, chúng ta không thể vì những sai lầm mà ông mắc
phải trong lúc làm việc mà quên đi công lao rất lớn của ông trong việc đề xuất
đào kinh Vĩnh An Hà, giúp chúng ta bảo vệ biên cương và nâng cao đời sống của
người dân ở hai bên bờ kinh. Mặc dầu đến nay kinh Vĩnh An Hà đã hoàn thành sứ
mạng lịch sử của nó, nhưng người dân vùng Tân Châu, Châu Đốc vẫn nhớ mãi trong
lòng những kỷ niệm của thời thơ ấu bên dòng kinh tươi mát mang lại nguồn sống
cho cư dân Việt và Chăm ở hai bên bờ kinh.
LÂM THANH QUANG.
Chú Thích :
(1) Cổ
Hủ : còn được gọi là Củ Hủ. Người Pháp gọi là Cu Hu là một địa danh trên sông
Vàm Nao tiếp giáp với sông Tiền, Nay được gọi là vàm Thuận Giang.
(2) Quyển Tân Châu xưa của Nguyễn Nguyễn văn Kiềm
do Huỳnh Minh biên soạn lại trang 124 ghi kinh này dài hơn 550 trượng, trên
miệng rộng 6 trượng, dưới đáy rộng 3 trượng, sâu 9 thước ( thước cỗ ) Theo đơn
vị đo lường của triều Nguyễn thì 1 trượng bằng 4m, 1 thước cỗ bằng 0,4 m. Như
vậy chiều dài con kinh chỉ hơn 2km bằng với đoạn kinh vừa mới lấp tại Tân Châu,
không đúng với thực tế là con kinh bắt nguồn từ chợ Tân Châu cũ đến ấp Phủm
Xoài thuộc xã Châu Phong tiếp giáp với sông Hậu dài khoảng 17km.
(3) Khi
Nguyễn văn Kiềm soạn quyển Tân Châu xưa vào cuối năm 1964 có ghi lại hình ảnh của bia Vĩnh An Hà
đã chụp trước đó . Vị trí của bia Vĩnh An Hà nằm ở bên tả bờ kinh là bờ sông
Tiền (trước mặt ngân hàng Agribank thị xã Tân Châu hiện nay). Với hình ảnh
trên, có lẽ bia Vĩnh An Hà bị rơi xuống sông Tiền vào khoảng thập niên 50 của
thế kỷ 20.
Tài
liệu tham khảo :
01. Tân
Châu Xưa do Nguyễn văn Kiềm biên soạn vào năm 1964 và Huỳnh Minh hiệu chỉnh lại
xuất bản năm 2003.
02. Mấy
lời chia sẻ từ dòng kinh Vĩnh An Hà của Lương Như Trung.(http://thatsonchaudoc.com/banviet2/LuongThuTrung/HoiKy/MayLoichiaSeCungVoiDongKinhVAH.htm)
03. Tiểu
sử Nguyễn Công Nhàn https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Công_Nhàn.
04.Chiến
thắng Cổ Hủ bài viết của Hoàng Vũ đăng trên e-news Đại Học An Giang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét