“ CÂY THẺ” VÀ “ BIA CÀN
LONG” NƠI CHÙA BỒNG LAI
HUYỀN
THOẠI VÀ SỰ THẬT
Nằm bên dòng
kinh Vĩnh Tế cách trung tâm thành phố Châu Đốc khoảng hơn 10 km, chùa Bồng Lai
được nhiều người biết đến bởi nó gắn liền với việc khai phá vùng đất Thất Sơn
để thành lập trại ruộng của Thiền sư Đoàn Minh Huyên được người đời xưng tụng
là Đức Phật Thầy Tây An, người sáng lập ra giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngoài
ra, nơi đây còn sót lại di tích một
trong 5 cây thẻ mà Đức Phật Thầy Tây An và Đức Cố Quản Trần văn Thành đã cắm -
mà có truyền thuyết cho rằng để phá “ếm” của người Trung Hoa.
Hình 1 : Chùa
Bồng Lai vào lễ giỗ lần thứ 122 của ông Đạo Lập.
Từ những câu
chuyện truyền thuyết :
Theo truyền
thuyết kể lại người lập nên chùa Bồng Lai là ông Đạo Lập tên thật là Phạm Thái
Chung hiệu là La Hồng ( 1832 – 1891), quê tại làng Đa Phước, nay thuộc huyện An
Phú, tỉnh An Giang, là một trong 12 đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An. Vào khoảng
năm 1849-1850, làng Bà Bài đang xãy ra một trận dịch. Ông Đạo Lập được Đức Phật
Thầy phái đến để trị bệnh cho dân chúng trong vùng. Dân làng tổ chức cất chùa để
cho ông tu hành và trị bệnh, đặt tên là chùa Bồng Lai nhưng người dân vẫn quen
gọi là chùa Bà Bài vì ngày xưa có một bà cụ tên Bài sống rất lâu ở đây. Lâu dần
người địa phương đọc trại thành Bài Bài.
Hình 2 : Khách hành hương thắp hương trước cửa
chùa.
Tương truyền, trong
một lần trên đường từ núi Tà Lơn về Bà Bài đi qua Ton Hon ( nay thuộc đất của
Campuchia, đoạn nằm giữa đường từ Giang Thành đến Tà Keo), ông Đạo Lập khám phá
một cây “ếm” bằng đá do người Hoa chôn ở đó. Trên cây ếm này có nhiều chữ đã mờ
chỉ còn đọc được vài chữ : 皇
清...乾 隆 五 十 七 年 仲 收 榖 旦
Dịch âm : Hoàng Thanh…. Càn Long ngũ thập thất niên,
trọng thu cốc đán…
Dịch nghĩa : Triều đại nhà Thanh, đời vua Càn Long
năm thứ 57, giữa mùa thu đầu vụ mùa.
Hình 3 : Tấm bia Càn Long được cho là do con cháu nhà Mạc dựng nên được đặt trong ngôi miếu nhỏ trước cửa vào hậu liêu chùa Bồng Lai.
Căn cứ vào những
chữ này người ta đoán là do con cháu họ Mạc cắm vào khoảng năm 1792 bởi vì trước
đó Mạc Thiên Tích bị giữ tại Xiêm La và tự tử chết vào năm 1780. Năm 1788 Mạc
Công Bính là con út của Mạc Tử Hoàng mới đem hài cốt của ông và gia quyến về
chôn tại núi Bình San thuộc trấn Hà Tiên.
Sau khi tìm được
bia Càn Long, Đức Phật Thầy Tây An cho đục bỏ một số chữ trên bia và làm 4 cây thẻ hình trụ vuông, trên đầu có hình
búp sen bằng gỗ “lào táo”, cùng 1 cây thẻ làm bằng trụ đá và sai ông Trần văn
Thành đem cắm xung quanh vùng Thất Sơn để “phá ếm”. Năm cây thẻ đó là :
- Đông Phương
Thanh Đế ở làng Vĩnh Hanh huyện Châu Thành ( ngày nay còn di tích là dinh ông
Thẻ).
- Bắc Phương Hắc
Đế thuộc xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú.
- Tây Phương
Bạch Đế thuộc ấp Bà Bài xã Vĩnh Tế cạnh chùa Bồng Lai.
- Nam Phương
Xích Đế tại Giồng Cát ( thuộc rừng Tràm ).
- Trung ương
Huỳnh Đế đặt tại Dinh ông thẻ gần điện Bò Hong trên đỉnh núi Cấm, xã Tú Tề
huyện Tịnh Biên làm bằng đá.
Hình 4 : Di tích còn lại của cây thẻ Tây Phương
Bạch Đế nơi chùa Bồng Lai.
Hình 5 : Bài vị Tây Phương Bạch Đế thờ ở bên cạnh
di tích cây thẻ.
Đến
hiện thực :
Theo các nhà
nghiên cứu đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thì tấm bia được cho là bia Càn Long mà ông đạo
Lập tìm ra thực ra không phải là bia ếm gì cả mà là loại cột mốc để xác định
chủ quyền của họ Mạc, vì vào năm 1757 Mạc Thiên Tích được vua Chân Lạp cắt đất
ban thưởng do đã có công giúp vua Chân Lạp đánh đuổi giặc Xiêm La. Đất phong đó
bao gồm Tầm Bôn ( Tân An ), Bôi Lạp ( Gò Công), Trấn Giang ( Hậu Giang), Trấn
Di ( Bạc Liêu ), Long Xuyên (Cà Mau) , Kiên Giang, đảo Phú Quốc của Việt Nam và
những vùng dọc theo ven biển từ Kampot đến Kompong Som của Campuchia ngày nay; Còn
chúa Nguyễn thì được đất Tầm Phong Long bao gồm An Giang, Đồng Tháp,Vĩnh Long,
Trà Vinh hiện nay.... Riêng vùng đất Hà Tiên ( Phương Thành) đã được Mạc Cửu dâng cho
chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ thứ 18 rồi. Sau đó họ Mạc tiếp tục đem những phần đất
được ban thưởng này dâng cho Chúa Nguyễn vì biết mình không có khả năng giữ được
trước cuộc tấn công của quân Xiêm La. Có lẽ “bia ếm” này là cột mốc xác định
ranh giới giữa An Giang và Hà Tiên.
Một số người
thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do còn chịu ảnh hưởng tư tưởng về phong thủy của
đạo giáo Trung Hoa đã cho rằng con cháu họ Mạc thấy vùng đất Thất Sơn có nhiều
linh khí nên đã cắm bia đá để ếm, vì vậy phải nhổ lên và trồng lại cây mới để
phá ếm. Nhiều nhà nghiên cứu khác còn liên hệ tấm bia Càn Long này với truyền
thuyết Cao Biền cởi diều gỗ bay đi khắp nơi tìm long mạch để trấn ếm nhằm tăng
thêm sự kỳ bí của tấm bia này. Điều này mới nghe qua cũng khá hợp lý, vì Cao
Biền vốn là một nhà địa lý tinh thông pháp thuật, được nhà Đường phong chức
Tiết độ Sứ Giao Châu và trong thời gian làm quan, ông đã đi khắp Giao Châu tìm
long mạch để trấn ếm nhằm tránh sự trỗi dậy của người dân đất phương Nam Trung
Quốc. Tuy nhiên, thực tế Cao Biền ( 821- 877) đã sống vào triều đại nhà Đường trước
nhà Mạc gần một ngàn năm. Vào thời kỳ này, vùng đất Thất Sơn
vốn thuộc vương quốc Phù Nam do hải xâm Holoxen IV đã bị chìm
trong biển nước, người dân ở đây ly tán khắp nơi thì làm gì còn chỗ cho Cao
Biền trấn ếm. Vấn đề này đã được các học giả giải thích rõ trong buổi hội thảo
về Thiền sư Đoàn Minh Huyên tổ chức tại huyện Tịnh Biên vào ngày 28 tháng 9 năm
2013. Đồng thời, theo cố nhà văn Mai văn Tạo thì “bia ếm” Càn Long này trước
đây được ông Đạo Lập mang về đặt ở chùa Bà Bài, nhưng vào những năm kháng chiến
chống Mỹ bị máy bay địch bắn phá nên các cụ già trong làng đem bia này về tại miếu Ngọc Hoàng phía sau lăng Thoại
Ngọc Hầu. Sau khi xây cất lại chùa Bồng Lai vào năm 1989, mới đem về đặt lại
phía sau chùa ngay cửa vào hậu liêu, trong một miếu thờ nhỏ.
Để đến chùa Bồng
Lai du khách có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Nếu đi bằng đường thủy
thì có thể bắt đầu từ đầu nguồn kinh Vĩnh Tế bằng tắc ráng hay tàu khách tuyến
Châu Đốc-Giang Thành. Còn đi bằng đường bộ thì từ gần đình Vĩnh Tế thì rẻ phải vào
con đường nhỏ dẫn đến Cống Đồn nằm trên bờ kinh Vĩnh Tế. Sau đó đi theo con
đường trãi nhựa dọc bờ kinh khoảng gần 5
cây số là có thể thấy chùa Bồng Lai nằm chơ vơ phía bên kia bờ kinh. Hiện nay có
một cầu treo bắc ngang kinh do một Việt Kiều sinh sống tại Mỹ là ông Huỳnh văn
Lang hiến cúng, để khách hành hương dễ dàng đến cúng bái chứ không phải chờ
xuồng đưa sang bên kia chùa như trước đây, nhất là trong những ngày Vía ông Đạo
Lập có hàng chục ngàn tín đồ ở khắp nơi đến cúng viếng.
Chùa Bồng Lai có
một đặc điểm khác biệt so với các ngôi chùa khác là phía trước thờ Phật Như Lai
nhưng phía sau thì thờ trần điều, Đức Phật Thầy Tây An, ông Đạo Lập và cụ cử Đa
- một nhân sĩ chống Pháp sang núi Tà Lơn ( Bokor) để tu luyện pháp thuật hòng giải
phóng nước nhà. Ông có công lớn trong việc xác định các loại thuốc quí hiếm có
trên núi Tà Lơn. Trong chùa cũng không có hình tượng gì nhiều như các chùa
khác.
Hình 6 : Phía mặt sau điện thờ chùa Bồng Lai thờ trần điều, Đức Phật Thầy Tây An và cụ Cử Đa còn phía trước thì thờ Phật như các chùa khác.
Bên hông chùa
sát bờ kinh Vĩnh Tế, di tích của cây thẻ chỉ còn lại gốc nằm dưới một hố sâu
được bảo quản cẩn thận. Phía trên có bệ thờ và bài vị có chữ “ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tây Phương Bạch
Đế”. Theo lời người dân kể lại do quá tin tưởng nên một số người có thân nhân
đau ốm, bệnh tật lén đẽo cây thẻ này về nhà làm thuốc vì họ cho rằng cây này có
thể trị được những bệnh nan y. Sau một
thời gian lưu lạc, nhà chùa mới tìm lại được hai mảnh dài khoảng 3 tấc, ngang
1,5 tấc và dày khoảng 6 phân và được đặt bên trong một lồng kiếng bên cạnh bài
vị của ông Đạo Lập trên bàn thờ phía sau chùa. Về thân và gốc cây thẻ còn lại
nằm dưới hố sâu sau này được đào lên và
đặt trong một lồng kiếng, xung quanh được rào bằng lưới thép để người dân có
thể chiêm ngưỡng.
Sau khi cuộc
khởi nghĩa Bảy Thưa của Trần văn Thành bị thất bại, ông Đạo Lập rời bỏ làng Bà
Bài để tìm đến núi Tà Lơn (Bokor) thuộc Campuchia mong tìm học được pháp thuật
để về trấn áp được súng đạn tối tân của người Pháp. Sau cùng ông cũng ngộ ra
rằng không phải bằng phép thuật mà chính sức lực của con người mới có thể đánh
đuổi giặc ngoại xâm. Ông trở lại chùa Bồng Lai để trị bệnh cứu người và phát
triển đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, qua đó sẽ tập hợp một số người để đánh đuổi giặc
Pháp. Thấy số người tập hợp trị bệnh khá đông, tiếng đồn vang xa nên giặc Pháp
cho mật thám tìm bắt ông nhưng nhờ sự che dấu của người dân nơi đây nên lần nào
chúng cũng về không. Chúng quay sang khủng bố các tín đồ nên buộc lòng ông phải
ra trình diện. Bọn cầm quyền giam ông tại nhà ngục Châu Đốc kết tội ông âm mưu
dấy loạn nhưng do không tìm được bằng chứng nên chúng đành phải thả ông ra. Sau
khi ông viên tịch, một số đệ tử âm thầm đưa ông về chôn tại cánh đồng tại xã Vĩnh
Nguơn. Mộ của ông được khõa bằng như mộ Phật Thầy Tây An chứ không làm nấm nên
hiện nay người ta không tìm được dấu vết.
Trong hai thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chùa Bồng Lai là trạm dừng chân của giao
liên, bộ đội khi qua lại giữa hai biên giới nên là mục tiêu bắn phá của giặc. Đây cũng là nơi bố trí bộ chỉ huy của du
kích xã Vĩnh Tế. Những chuyện như tia lửa bay lên từ chùa vào những đêm tối
trời làm người dân chung quanh cho rằng thần linh xuất hiện đó chẳng qua là những xảo thuật do bộ đội tạo ra để tránh
những tai mắt dòm ngó đến hoạt động của bộ đội tại chùa. Từ năm 1965 đến 1968,
bom đạn pháo từ Châu Đốc làm cho chùa bị thiệt hại nặng nề, mái bị sập, tường
đổ ngỗn ngang. Khoảng năm 1969, bà con bổn đạo mới dời chùa về núi Sam phía sau
miếu Khổng Tử kế bên lăng ông Thoại Ngọc Hầu để thờ phụng.
Trong chiến
tranh biên giới phía Tây Nam,
một lần nữa chùa Bồng Lai trở thành bình địa trước sự cướp phá của bọn giặc
Pôn-Pốt tràn sang từ phía bên kia biên giới. Dân chúng phải chạy sang phía bên
này bờ kinh để sinh sống, phía bên chùa giờ đây chỉ còn lại mấy ngôi nhà rãi
rác phía xa xa.
Khi chiến tranh
qua đi, chùa Bồng Lai được trùng tu lại để có nơi thờ phụng và giữ gìn di tích
“Cây thẻ”. Lần trùng tu sau cùng là vào năm 1992, chùa được mở rộng thêm nhà
khách ở phía sau để tiếp đón khách hành hương đến viếng nhân dịp lễ giỗ của ông
Đạo Lập vào ngày 30 tháng 9 âm lịch. Lễ giỗ năm nay kỷ niệm 122 năm ngày mất
của ông, chùa đã đón nhận gần 10.000 khách hành hương từ các nơi về dự. Trong
đó, có những cụ ông, cụ bà ở ngưỡng tám, chín mươi tuổi quê tận các tỉnh xa như
Cà Mau, Kiên Giang hàng năm vẫn theo con, cháu về đây dự lễ giỗ với lòng thành
kính vô biên…
Hình 7 : Bài vị ông Đạo Lập được thờ ở vách sau
chùa.
Vào
ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chùa Bồng Lai được công nhận là Di tích Lịch sử Cách
mạng cấp tỉnh.
Loại bỏ những
yếu tố về mê tín dị đoan ra, chúng ta nhận thấy rằng việc cắm cây thẻ tại chùa
Bồng Lai không phải là phá thế “ếm” của bia Càn Long, mà chính là việc xác lập
chủ quyền của tiền nhân khi đến khai phá vùng đất mới, một công cuộc lắm gian
lao mà nhiều khi họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt và ngay cả bằng máu của
chính mình. Nguyện vọng của họ là dành lại sự
ấm no cho người đời sau…!
LÂM THANH QUANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét