THIỀN
SƯ ĐOÀN MINH HUYÊN
NGƯỜI NỐI KẾT GIỮA ĐẠO VÀ ĐỜI.
LTQ
Nằm
trong quần thể di tích văn hóa lịch sử núi Sam cách thị xã Châu Đốc 5km, chùa
Tây An với kiến trúc mang phong cách Ấn Độ và dân gian cổ Việt Nam đã được bộ
Văn Hóa xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào ngày 10 tháng
7 năm 1980. Tên Tây An tự do Tổng Đốc An Hà ( An Giang và Hà Tiên) Doãn Uẩn là
người thành lập ngôi chùa đặt mang hàm ý trấn an bờ cõi ở phía Tây sau khi ông
đánh thắng được quân Xiêm La sang quấy nhiểu ở nước ta. Chùa còn là nơi thiền sư Đoàn Minh Huyên được
người đời xưng tụng là đức Phật Thầy Tây An đã sống trong những ngày cuối đời
và viên tịch tại đây.
Hình 1 : Chùa Tây An Cổ Tự Núi sam.
Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856), đạo
hiệu là Giác Linh, quê ở Tòng Sơn, Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh
Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Sau khi ông đến tu tại chùa Tây An (núi Sam,
Châu Đốc) được tín đồ gọi tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Cuộc đời của
ông là cả một huyền thoại giữa hư và thật. Ngoài việc sáng lập ra đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương, ông còn là người tiên phong hướng dẫn các cư dân và tín đồ khai phá
và thành lập nên 2 làng An Thới và Xuân Sơn ( tức xã Thới Sơn thuộc thị trấn
Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang hiện nay).
Hình 2 : Lễ Giỗ Đức Phật Thầy Tây An tại Núi Sam.
Hoàn cảnh xã hội lúc thiền sư sinh
ra rất phức tạp. Sau khi được các thế lực trong và ngoài nước ủng hộ, Nguyễn
Ánh đã đánh thắng được quân Tây Sơn và thống nhất nước nhà . Năm 1802, Nguyễn
Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long và đặt kinh đô tại Phú Xuân ( TP Huế
ngày nay ). Để khôi phục lại vương quyền và xây dựng một nhà nước phong kiến, vua
Gia Long giao cho các tướng lĩnh thân cận nắm giữ các nơi trọng yếu : Tiền Quân
Nguyễn văn Thành trấn giữ Bắc Thành ( Hà Nội ngày nay), Tả quân Lê văn Duyệt
trấn giữ Gia Định Thành là nơi nhà vua đã từng sống trước khi phục nghiệp. Những
công trình giao thông và thủy lợi được tiến hành ở tỉnh An Giang như kinh Thoại
Hà từ Long Xuyên đến Rạch Giá, kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc đến Giang Thành...giúp
cho người dân thuận lợi trong việc đi lại và khai khẩn đất hoang. Tuy nhiên
dịch bệnh cũng đã hoành hành tại các nơi này và là nỗi ám ảnh trong đời sống
của người dân. Trong số hơn 5.000 người hy sinh trong việc đào kinh Vĩnh Tế từ
năm 1819 đến năm 1825 đã có hơn 3.000 người chết vì bệnh dịch tả mà người đương
thời gọi là bệnh thời khí do điều kiện sinh hoạt thiếu thốn và giữ gìn vệ sinh
không tốt. Toàn miền Nam có hơn 30.000 người bị chết vì dịch tả chiếm hơn 5%
dân số lúc đó. Ngoài dịch bệnh, người dân còn phải đối mặt với nạn cường hào
tại các địa phương còn những vị quan thanh liêm thì bị vu cáo là lạm quyền và
bị triều đình bức hại. Các vụ án như Nguyễn văn Thoại bị Tào hình Võ Du vu cáo
, Lê văn Duyệt bị kết tội và xiềng mộ sau khi ông mất tại thành Gia Định và
Nguyễn văn Thành bị ép tuẫn tiết tại
Bắc Thành ... là một minh chứng cho việc cũng cố quyền lực của vua Minh Mạng
đối với các vị đại thần đã từng theo giúp vua Gia Long phục quốc và là cơ sở để
cho Lê văn Khôi nổi loạn giết quan Bố Chánh Bạch Xuân Nguyên, Tổng Đốc An Biên
Nguyễn văn Quế và chiếm giữ thành Phiên An (Gia Định) từ năm 1833 đến năm 1835
.
Hình 3 : Mộ
Đức Phật Thầy Tây An ở phía sau chùa Tây An, núi Sam.
Sau khi dẹp tan cuộc khởi binh của
Lê văn Khôi, thành Phiên An bị san bằng, 1831 người bao gồm những nghĩa binh và
người nhà trong thành bị giết chết và chôn tại “ đồng Mã Ngụy”(1), còn những
cầm đầu cuộc nổi dậy thì bị giải về Phú Xuân để triều đình xử tội. Trong số
những người này có hai nhân vật nổi bật là cố đạo Marchand ( còn được gọi là cố
Du, Mã Song) giữ vai trò truyền đạo Gia Tô tại thành Gia Định và lảnh tụ của
người Hoa tên là Lưu Hằng Tín ( còn gọi là Bốn Bang). Điều này cho thấy rằng đạo
Gia Tô vẫn được tự do truyền giáo tại thành Gia Định dưới sự bảo trợ của Lê văn
Duyệt mặc dầu vua Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo Gia Tô, đuổi các thừa sai về nước
và người Hoa nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế tại đây.
Đứng
trước việc đối xử hà khắc của triều đình đối với những người dân Nam bộ mà phần
lớn là dân ngũ Quảng (2) di cư , dân Hồi lương và Bắc thuận (3)... nhiều nhân sĩ
ở miền Nam chọn con đường an phận là tìm đến những ngọn núi xa xôi hiểm trở như
núi Cấm ở vùng Thất Sơn, thậm chí đến núi Tà Lơn ( Bokor) lúc đó còn thuộc quyền
bảo hộ của Việt Nam để tu tiên học đạo chờ thời cơ. Một số khác thì chọn phương
án “Nhập thế hành đạo”, chữa bệnh cho người dân bị mắc những chứng bệnh hiểm
nghèo , đồng thời tuyên truyền đạo giáo mới phù hợp với điều kiện của người dân
vốn khó khăn trong việc mưu sinh ; chống lại sự phát triển của đạo Gia Tô được
xem như là ngoại lai và thói quen mê tín dị đoan trong dân chúng lan tỏa đến
các chùa chiền của Phật giáo.
Năm Kỷ Dậu ( 1849), nhân dân trong
vùng An Giang bị mắc bệnh dịch tả chết rất nhiều. Các lương y lẫn những pháp sư
nổi tiếng trong vùng đều phải bó tay mặc cho căn bệnh trên hoành hành. Thiền sư
Đoàn Minh Huyên chèo xuồng con ngược dòng sông Cái Tàu ra rạch Xẽo Môn đến làng
Kiến Thạnh ( tức làng Long Kiến, tỉnh An Giang) để trị bệnh cho dân chúng.
Tiếng lành đồn xa nên nhiều người từ các nơi đến gặp ông để xin trị bệnh. Sau
đó thiền sư dời về cốc của ông đạo Kiến ( sau này dựng nên Tây An Cổ Tự).
Hình 4 : Lễ giỗ Đức Phật Thầy Tây An tại chùa
Thới Sơn.
Để
lý giải tại sao Thiền sư Đoàn Minh Huyên chỉ dùng nước cúng và hương hoa
mà trị hết bệnh cho người dân lúc bấy giờ, một số nhà nghiên cứu về Bửu Sơn Kỳ
Hương đưa ra giả thuyết như sau :
Trong số các pháp môn mà Đức Phật
Thích Ca truyền lại cho các đệ tử bao gồm Mật Tông, Tịnh Tông và Thiền Tông.
Mật tông cũng gọi Chân ngôn tông là
một tông phái lấy pháp tu trì bí mật làm yếu chỉ. Giáo phái này không chọn việc thi hành Phật pháp bằng cách
giảng dạy qua những kinh kệ mà bằng những mật ngữ, phù chú và ấn quyết mang
tính chất huyền bí. Nó có năng lực đem lại sự an lành và và giải trừ những tai
nạn đưa đến. Mật Tông này rất thịnh hành ở Trung Hoa vào đời Tùy Đường nhưng về
sau thất truyền vì khó thực hiện. Ngày nay ở Tây Tạng , Nhật Bản và một vài nơi
ở Trung Quốc vẫn còn những giáo phái tu theo lối mật tông này. Đạt Ma Tổ Sư
người Thiên Trúc ( Ấn Độ) khi đến Trung Quốc đã triển khai pháp môn này bằng
cách đứng trên một cây sậy để vượt biển. Tranh
“Bồ Đề Đạt Ma quá hải” được thờ rất nhiều trong các ngôi chùa của Phật
Giáo. Ở Việt Nam, vào đời Lý có những vị cao tăng như Nguyễn Minh Không và Từ
Đạo Hạnh tu theo lối Mật tông, có nhiều phép mầu nhiệm, danh tiếng vẫn còn
truyền đến ngày nay.
Để học được pháp môn này phải là
người có cơ duyên, luyện tập công phu và nhất là phải có tư tưởng và đạo đức
tốt, bằng không thì sẽ lâm vào sự mê tín dị đoan và làm hại cho bản thân và
người khác.
Thiền sư Đoàn Minh Huyên là một bực
chứng chân đắc pháp, nên không ngại dùng những thuật huyền bí của Mật giáo cứu
độ chúng sinh. Gặp lúc dân chúng mặc nạn ôn dịch, ông đã dùng phép huyền diệu
chữa trị cho người dân. Chỉ với một chung nước lã, thiền sư niệm chú rồi cho
uống, thế mà trăm bịnh trăm lành. Ngoài ra, ông còn dùng phép huyền điệu chữa
các bịnh tà như điên cuồng, trùng tang, mắc đàng dưới.... ; biến hiện nhiều
diệu thuật khi bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ thử thách. Nhờ những phép diệu cứu
độ chúng sinh, mà người đời nhất là những người mắc bịnh được chữa lành, đều
đem lòng tin tưởng, đi theo rất đông.
Hỉnh 5 : Đãi cơm chay tại Đình Thới Sơn .
Thật ra Mật tông chỉ là pháp môn mà
thiền sư Đoàn Minh Huyên lựa chọn để dẫn dắt các tín đồ từ việc tin tưởng đi
đến việc thực hiện và giữ gìn truyền thống của dân tộc trước sự phát triển của
các tôn giáo ngoại lai và sự trà trộn của những phần tử xấu vào cửa thiền để
tạo ra sự mê tín, dị đoan. Việc ông đưa ra thuyết Tứ Ân Hiếu Nghĩa chính là bước
chuyển tiếp từ Mật Tông sang Tịnh Tông và Thiền Tông. Bốn ân đó là :
- Ân Đất nước : giữ gìn truyền thống
yêu nước của dân tộc, không theo giặc, làm tôi mọi cho ngoại bang.
- Ân Cha mẹ : bảo tồn và phát huy giá
trị của chữ hiếu, một trong những đức tính hàng đầu của đạo Nho.
- Ân Tam bảo : đề cao đời sống tinh
thần, xác lập sự gắn bó giữa đạo và đời.
-
Ân đồng bào, nhân loại : tạo mối
quan hệ tốt đẹp giữa người và người, luôn luôn lấy lòng nhân làm gốc.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được lập nên
vào năm 1849 dựa trên nền tảng của Tứ Ân Hiếu Nghĩa để thuyết phục người dân
gia nhập đạo. Theo học thuyết của giáo phái này, thì Bửu Sơn (núi báu) là Thất
Sơn, mà linh thiêng nhất là núi Cấm. Kỳ hương tức là mùi hương lạ. Hội Long Hoa
sau thời Mạt pháp sẽ được thành lập ở đó để đón nhận những ai biết tu hiền.
Trước thực trạng nghèo đói và bệnh
tật triền miên, nghe nói hội Long Hoa, giống như cõi Tiên tại thế, mà việc hành
đạo lại rất dễ dàng, nên người tin theo ngày càng đông. Có thể nói thiền sư
Đoàn Minh Huyên là người thứ nhất báo hiệu và đánh thức người đời rằng thời kỳ
Hạ ngươn sắp mãn để bước sang thời Thượng ngươn, tức là thời kỳ Đức Phật Di-Lặc
hạ phàm lập nên hội Long Hoa. Những tín đồ theo đạo được cấp một “lòng
phái” có ghi chữ Bửu Sơn Kỳ Hương để phân biệt với các tôn giáo khác. Những
người này không đến chùa để xuất gia mà vẫn ở nhà tu theo chế độ cư sĩ (4), chỉ
thờ trần điều màu đỏ chứ không thờ hình tượng và tự lực sản xuất để nuôi sống bản
thân mình chứ không nhờ vào người khác. Đây là một điểm khác biệt của đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương so với các chi phái khác của đạo Phật.
Chẳng những thực thi phép diệu mà thiền
sư còn truyền cho môn nhân đệ tử để đi cứu đời độ thế. Những đệ tử của ông như
Đạo Xuyến, Đạo Sang, Đình Tây, Đạo Lập… đều được truyền mật pháp mà đắc thần
thông. Trong lúc thiền sư còn trụ thế cũng như sau lúc tịch diệt, các môn đệ
phân nhau đi hóa độ khắp các tỉnh miền Nam và Cao miên. Các tỉnh miền Tây thì
có Đạo Sang, Đạo Lập, Đạo Ngoạn, Đạo Thắng…, còn các tỉnh miền Đông thì có Đạo
Xuyến. Riêng các tỉnh dọc theo ranh giới Cao miên thì có Bà Năm Chòm Dầu và cậu
Hai Lãnh tục gọi cậu Hai Gò Sặc lãnh phần giáo độ.
Chẳng bao lâu sau khắp các tỉnh miền
Nam, nơi nào cũng có đạo Bửu Sơn Kỳ Hương truyền bá đến. Có thể nói, nhờ thực
thi các pháp huyền diệu của Mật giáo để cứu thế độ dân mà phái Bửu Sơn Kỳ Hương
đem người đời từ chổ thiếu tin tưởng nơi tôn giáo, lâm vào mê tín dị đoan sang
một tôn giáo mới rất gần gủi với cuộc sống thường ngày của họ.
Việc làm của thiền sư không sao
tránh được những tai mắt của chính quyền thời bấy giờ. Họ sợ rằng nếu để cho tự
do truyền bá đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thì rất dễ xãy ra loạn Lê văn Khôi thứ hai,
làm suy yếu quyền lực của nhà nước phong kiến. Chúng bắt ông vào nhà lao Châu
Đốc nhưng xét không có bằng chứng thiền sư là gian đạo sĩ nên đành phải trả tự
do. Thiền sư bị buộc phải qui y Phật theo phái Lâm Tế và chỉ định tu tại chùa
Tây An (5) dưới chân núi Sam do Tổng Đốc Doãn Uẩn lập năm 1847. Từ đó người dân
trong vùng tôn kính gọi thiền sư là Đức Phật Thầy Tây An.
Mặc dầu bị chỉ định nơi cư trú, song
thiền sư vẫn thường đi lại khắp nơi, phổ biến đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đồng thời
vận động dân nghèo đi khai hoang, lập thành 4 khu dinh điền lớn là Đồng Tháp
Mười (Đồng Tháp), Thới Sơn ( Tịnh Biên, An Giang), Láng Linh và Cái Dầu ( Châu
Phú, An Giang)... Những vùng đất còn hoang sơ không dấu chân người dần dần biến
thành những trại ruộng cò bay thẳng cánh. Tương truyền khi thành lập trại ruộng, ông
bắt gặp bia đá do Mạc Thiên Tích để lại đề ghi niên hiệu Càn Long thứ 57 tại
làng Bà Bài bên dòng kinh Vĩnh Tế. Thiền sư cho nhổ đi và sai đệ tử là Trần
văn Thành dùng cây lào táo làm thành 4 cây thẻ cắm ở 4 hướng khác nhau :
- Đông
Phương Thanh Đế ở làng Vĩnh Hanh huyện Châu Thành ( ngày nay còn di tích là
dinh ông Thẻ).
- Bắc
Phương Hắc Đế thuộc xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú.
- Tây
Phương Bạch Đế thuộc làng Bà Bài xã Vĩnh Tế cạnh chùa Bồng Lai.
-
Nam
Phương Xích Đế tại Giồng Cát ( thuộc rừng Tràm ).
Riêng cây thẻ Trung ương Huỳnh Đế được
làm bằng đá đặt tại núi Cấm, xã Văn Giáo huyện Tịnh Biên.
Những cây thẻ này hiện nay chỉ còn
lại di tích như ở Bà Bài, Vĩnh Hanh... Riêng cây thẻ trung ương làm bằng đá
cắm ở núi Cấm đến nay chưa rõ tung tích. Có giả thuyết cho rằng Đức Phật Thầy tây
An là người hiểu biết huyền cơ, biết rõ người Pháp sẽ xâm lăng nước ta nên
thành lập những trại ruộng này để trở thành những căn cứ chống Pháp. Giả thuyết này không có cơ sở vững chắc, lịch sử cho thấy rằng sau khi vua Thiệu Trị từ bỏ việc bảo
hộ Cao Miên, ra lệnh cho Trương Minh Giảng và Nguyễn Tri Phương rút về thành
Châu Đốc, đồng thời trả lại vùng đất trãi dài theo ven biển từ Hà Tiên đến
Kompong Thom ( do Mạc Thiên Tích đã dâng tặng vào năm 1758) về cho Cao Miên ;
thì quân Xiêm La ( Thái Lan ngày nay) thừa cơ đem quân sang quấy nhiểu vùng
Châu Đốc nhiều lần. Khi triều đình hay tin đem quân cứu viện, chúng mới chịu
rút về. Việc thành lập các trại ruộng giúp cho các tín đồ làm quen với lối làm
ruộng theo kiểu tập thể, đồng thời bảo vệ lẫn nhau trước sự quấy nhiểu của quân
Xiêm La. Từ đó nhân dân trong vùng sống trong no ấm không còn cảnh đói kém như
trước đây. Tư tưởng Tứ Ân Hiếu Nghĩa là nền tảng cho các cuộc khởi nghĩa của
các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương do đệ tử của ngài là Trần văn Thành và người sáng
lập phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa Ba Chúc là Ngô Tự Lợi lãnh đạo chống Pháp khi chúng
xâm chiếm nước ta sau này.
Hình 6 : Trại vỏng tại chùa Thới Sơn.
Thiền sư Đoàn Minh Huyên mất vào
ngày 12 tháng 8 âm lịch năm 1856. Theo di nguyện của ông, ngôi mộ được xây đơn
sơ không đắp thành nấm trên trên một mảnh đất nằm phía sau chùa Tây An, hàng
ngày được các tín đồ quét dọn sạch sẻ. Hằng năm vào ngày giỗ, những tín đồ từ
các nơi đến đây thắp hương trước khi đến làm lễ chùa Thới Sơn tại xã Thới Sơn
thuộc thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên vốn được xem như là tổ đình của đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương. Ngoài ra họ còn đến viếng đình Thới Sơn và trại ruộng là nơi
thiền sư cùng với các đệ tử là ông Tăng chủ Bùi văn Thân và ông Đình Tây đã dày
công khai phá.
Hình 7 : Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đến cúng bái tại trại ruộng Thới Sơn.
Số lượng người đến dự lễ giỗ này có
hơn 30.000 người và là ngày hội lớn của các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Họ mang
đến những sản vật do chính tay họ làm ra như gạo, đậu, rau quả... để đóng góp
cho ngày lễ giỗ. Những sản vật này được các tín đồ nấu cơm chay phục vụ cho mọi người đến dự lễ giỗ
không phân biệt trong hay ngoài đạo. Tất cả những nghĩa cử đó xuất phát từ tư
tưởng gắn liền giữa Đạo và Đời, một lối thiền dung dị mà bất cứ ai cũng có thể
theo đuổi trong suốt cuộc đời mình để hướng đến chân thiện, mỹ mà thiền sư Đoàn
Minh Huyên đã xây dựng cho tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương cách nay hơn 150 năm được
giữ gìn đến ngày nay.
LÂM THANH QUANG
Chú thích :
1. Đồng mã Ngụy : hiện nay nằm ở khu Hòa
Hưng thuộc phường 12, Quận 3 TP HCM.
2. Ngũ Quảng : bao gồm 5 tỉnh : Quảng
Bình, Quảng Trị, Quảng Tín ( Thừa Thiên ), Quảng Nam, Quảng Ngải.
3. Hồi lương và Bắc Thuận : là những
người dân bị tội được cho hoàn lương và những người theo giặc bị bắt được tha
nhưng phải chịu cảnh lưu đày xa quê hương.
4. Cư sĩ : chỉ những người tu tại gia
vẫn có gia đình vợ con chứ không “
Xuất gia cắt ái” như đạo Phật.
5.
Vị
sư trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Nguyễn Văn Giác (1788–1875), pháp hiệu Hải Tịnh,
tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là
chùa Lâm Tế .
Tài liệu tham khảo :
-
Đức Phật Thầy Tây An của Nguyễn văn
Hầu.
- Bửu Sơn Hỳ Hương của Vương Kim.
- Lê văn Khôi và sự biến thành Phiên
An của Nguyễn Phan Quang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét